Bạn đang xem bài viết Ung Thư Vú Biểu Mô được cập nhật mới nhất trên website Sept.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Dựa vào đặc tính của các tế bào ác tính mà bệnh ung thư vú biểu mô được chia làm 2 loại: Ung thư vú biểu mô không xâm lấn và ung thư vú biểu mô xâm lấn.
1. Ung thư vú biểu mô không xâm lấn
Một trong các dạng bệnh phổ biến nhất của ung thư vú biểu mô không xâm lấn là ung thư vú biểu mô ống dẫn tại chỗ – ống mang sữa mẹ từ các tiểu thùy đến núm vú, hay còn gọi là DCIS (Dutal carcinoma in situ). Ở dạng bệnh này, các tế bào ung thư vú bắt đầu xuất hiện và phát triển ở một trong các ống dẫn sữa của vú và chưa lan tỏa ra khỏi ống dẫn sữa hay bất kỳ mô bình thường nào xung quanh tuyến vú.
Theo ước tính của Hiệp hội ung thư Mỹ thì ở nước này cứ mỗi năm có khoảng 60.000 trường hợp DCIS được chuẩn đoán, chiếm 1/5 số lượng bệnh nhân ung thư vú mới.
Các bác sĩ thường phân loại Ung thư vú biểu mô ống dẫn tại chỗ thành các lớp khác nhau để từ đó xác định được phương pháp điều trị thích hợp: Lớp cao cấp (các tế bào ung thư tăng trưởng nhanh hơn), lớp cấp thấp (các thế bào ung thư tăng trưởng chậm hơn) và lớp trung gian ở giữa. Trong đó, lớp cao cấp được cảnh báo là có nhiều khả năng lây lan sang các mô vú xung quanh và nhiều khả năng bệnh sẽ tái phát sau khi điều trị.
Phương pháp điều trị ung thư vú biểu mô không xâm lấn
Thông thường, các bác sĩ sẽ lựa chọn phẫu thuật làm phương pháp chính cho bệnh nhân DCIS để cắt bỏ khối u. Ở phương pháp này, bệnh nhân có thể lựa chọn việc cắt bỏ toàn bộ vú và tái tạo vú bằng bằng giải phẫu thẩm mỹ hoặc chỉ cắt bỏ một phần tuyến vú và thực hiện xạ trị nếu phát hiện các tế bào còn lại của mô vú trông bất thường – lớp cao cấp. Trường hợp các tế bào của DCIS có thụ thể estrogen, bác sĩ sẽ đề nghị điều trị bằng liệu pháp hoocmon để giảm nguy cơ bệnh sẽ phát triển sang hình thức xâm lấn trong tương lai.
Đa số bệnh nhân ung thư vú được phát hiện trong giai đoạn này có thể chữa khỏi. Tuy nhiên, khi bị DCIS nghĩa là sẽ có ung cơ ung thư vú tái phát hoặc phát triển thành một dạng bệnh ung thư vú mới cao hơn so với người chưa từng bị ung thư vú.
Việc phẫu thuật một phần tuyến vú thường ít đau, ít tác dụng phụ và phục hồi nhanh hơn vì chỉ có khối u và các mô rất nhỏ bình thường xung quanh, cũng như hạch bạch huyết cần lấy ra để làm xét nghiệm. Nhưng trường hợp phẫu thuật một phần vú và không xạ trị thì nguy cơ tái phát sẽ lên đến 25-30%, còn nếu dùng xạ trị thì nguy cơ giảm xuống còn 15%. Nếu bệnh DCIS quay trở lại sau khi điều trị thì nửa thời gian đầu sẽ ở dạng không xâm lấn, nhưng có thể nửa thời gian sau sẽ phát triển thành dạng xâm lấn. Do đó, sau khi điều trị, bệnh nhân cần thường xuyên kiểm tra và theo dõi để phát hiện kịp thời các dấu hiệu DCIS tái phát. Cách tốt nhất là chụp X-quang tuyến vú định kỳ hàng năm.
2. Ung thư vú biểu mô xâm lấn
Ung thư vú biểu mô xâm lấn là dạng bệnh mà các tế bào ung thư xuất hiện và phát triển trong niêm mạc ống dẫn sữa, phá vỡ các thành của các ống dẫn và xâm lấn các mô khác trong khu vực vú. Từ đó, các tế bào ác tính có thể di căn tràn lan sang các bộ phận khác của cơ thể như xương, phổi, não, gan….Dạng bệnh này chiếm khoảng 80% trong bệnh ung thư vú.
Ung thư vú xâm lấn được chia thành các dạng như: ung thư vú biểu mô ống xâm nhập, ung thư vú biểu mô tiểu thùy xâm nhập, ung thư vú biểu mô thể tủy, ung thư vú biểu mô thể nhầy.
Đặc điểm cụ thể của các dạng ung thư vú xâm lấn được tổng quát như sau:
Là dạng bệnh thường gặp ở ung thư vú xâm lấn, chiếm 65-80% và nó có thể bao gồm cả những loại mô khác như tiểu thùy, thể tủy, thể nhầy. Khối u ở ung thư vú biểu mô xâm lấn là dạng u đặc, có thể có màu vàng và được chia làm 3 độ: độ 1 – cá biệt hóa cao, độ 2 – biệt hóa vừa và độ 3 -kém biệt hóa. Càng biệt hóa cao thì thì mức độ hình thành các ống nhỏ càng nhiều, mức độ đa dạng của nhân ít và hoạt động nhân chia ít.
Dạng ung thư này hầu hết đều có di căn hạch nách. Ngoài ra, có thể xâm nhập huyết quản và bạch mạch – muốn xác định việc bị xâm nhập hay không thì phải nhuộm HMMD với CD31 và CD34, yếu tố VII, laminin. Ngoài ra, Có 25% hiện tượng tắc mạch do u xảy ra đối với các trường hợp ung thư biểu mô ống xâm nhập, 10% xâm nhập vỏ dây thần kinh.
Là dạng bệnh phổ biến thứ 2 của ung thư vú xâm lấn, với tỉ lệ 10-14%. U ở dạng bệnh này thường rất cứng có màu nhạt và bao gồm các tế bào đồng đều nhau tương tự như tế bào trong ung thư biểu mô tiểu thùy tại chỗ và hầu hết có tỷ lệ nhân chia thấp. Hình ảnh khi siêu âm cho thấy dạng bệnh này giống bệnh tuyến vú xơ, các tế bào phát triển bao quanh các tiểu thùy hoặc ống tạo thành hình bia và thường sắp xếp theo kiểu một hàng nhưng khó phát hiện được là u lành tính hay ác tính.
Đây là loại ung thư biệt hóa cao, các tế bào có kích thước đồng đều, sắp xếp thành những ống nhỏ được lót bởi một hàng tế bào. Các ống tế bào được bọc bởi mô liên kết xơ đặc. Thường dạng bệnh này có độ lành tính cao. Hình ảnh siêu âm thường trông như bệnh tuyến vú xơ cứng. Dạng bệnh này thường xâm nhập trong các mô mỡ.
Là dạng bệnh chiếm khoảng 5-7% trong tất cả biểu mô ung thư vú, các tế bào kém biệt hóa với mô đệm ít. Khối u thường có màu xám, đôi khi đệm cả màu vàng do hoại tử và các khối u thường có ranh giới rõ ràng, các dải tế bào u hình thành thành dải hoặc đám và không thấy xuất hiện trong mô mỡ. Thường sự phát triển và lan rộng của các tế bào ung thư tại chỗ trong ống và các tiểu thùy sẽ dẫn đến sự hình thành các cục ụ thứ phát tương tự những cục u ở ung thư biểu mô thể tủy.
Loại ung thư này chỉ chiểm tỉ lệ nhỏ khoảng 2-3.6% các trường hợp ung thư biểu mô vú với 50% diện tích u phát triển thành chất nhầy. Đây là loại biến thể của ung thư biểu mô ống xâm nhập với mật độ u phụ thuộc vào khối lượng mô đệm, mô đệm thưa thì khối u mềm. Hầu hết các khối u biểu mô nhầy đều có màu tía đến đỏ. Cần phân biệt mô thể nhầy với các u dạng nhầy lành tính – là các nang được lót bởi các tế bào mô vuông hoặc trụ lành tính với rất nhiều chất nhầy bên ngoài.
Đây là một dạng biến thể đặc biệt của ung thư biểu mô ống với độ ác tính thấp. Kích thước u có thể lớn hoặc nhỏ, mật độ u chắc và có ranh giới rõ ràng. Ở một vài trường hợp u có hình sao và thường không có hiện tượng hoại tử.
Phương pháp điều trị ung thư vú biểu mô xâm lấn
Tùy thuộc vào kích thước khối u và độ lây lan của ung thư vú biểu mô xâm lấn mà các bác sĩ sẽ lựa chọn các cách khác nhau như điều trị tại chỗ, mục tiêu là tiêu diệt khối u và các khu vực xung quanh hoặc điều trị hệ thống, mục tiêu là tiêu diệt các tế bào ung thư đã lan rộng sang các bộ phận khác.
Về điều trị tại chỗ
Thường bao gồm 2 phương pháp sau:
Phẫu thuật: Được coi là phương pháp hiệu quả nhất trong điều trị ung thư vú xâm lấn, giúp loại bỏ hoàn toàn khối u bằng cách cắt bỏ một phần hoặc toàn bộ vú.Xạ trị: Phương pháp bức xạ trị liệu được dùng để tiêu diệt các tế bào ung thư còn sót lại sau khi phẫu thuật, có thể là bức xạ chùm tia bên ngoài, chiếu xạ một phần vú bên trong hoặc chiếu xạ một phần vú bên ngoài.
Về điều trị toàn thân:
Cũng gồm hai phương pháp điều trị.
Hóa trị: Phương pháp này thường chỉ dành cho những bệnh nhân có khối u lớn hoặc có nguy cơ tái phát cao. Các loại thuốc hóa trị sẽ được sử dụng để giúp loại bỏ các tế bào ung thư còn sót lại sau khi phẫu thuật và xạ trị.
Liệu pháp hoocmon: Còn gọi là liệu pháp nội tiết – các bệnh nhân sẽ được kê dơn thuốc kháng estrogen để ngăn chặn các thụ thể hoocmon của tế bào ống động mạch xâm lấn nhận estrogen và phân chia. Các loại hoocmon này sẽ làm giảm lượng estrogen trong cơ thể, từ đó ngăn ngừa các tế bào ung thư phát triển.
So sánh hai dạng bệnh phổ biến nhất của ung thư vú xâm lấn là ung thư vú biểu mô xâm lấn (IDC) và ung thư vú tiểu thùy xâm lấn (ILC) thì tuy tỉ lệ sống sót là tương tự nhau nhưng nghiên cứu cho thấy bệnh nhân ILC có triển vọng tốt hơn. Cụ thể, một nghiên cứu đã được công bố năm 1997 trên tạp chí British Journal of Cancer cho thấy ILC ít lây lan hơn, tỷ lệ sống thêm 5 năm của bệnh nhân kể từ khi điều trị là 78% và trên 30 năm là 50%, trong khi đó ở bệnh nhân IDC là 63% và 37%.
Ung Thư Vú Biểu Mô Ống Động Mạch Tại Chỗ
Đây là dạng ung thư vú khá phổ biến và ngày càng tăng. Ung thư có khả năng quay trở lại sau điều trị mà không dùng xạ trị. Với những kỹ thuật tiến bộ ngày nay, có thể phát hiện sớm và điều trị để không ảnh hưởng đến sức khỏe lâu dài của người bệnh.
DCIS – Dutal carcinoma in situ: Ung thư biểu mô ống dẫn tại chỗ
Ung thư biểu mô ống dẫn tại chỗ (DCIS) là dạng phổ biến nhất của không xâm lấn. Ung thư trong ống có nghĩa là ung thư bắt đầu bên trong các ống dẫn sữa, ung thư biểu mô đề cập đến bất kỳ dạng nào bắt đầu trong da hoặc các mô khác (bao gồm cả mô vú) bên ngoài hoặc trong các cơ quan nội tạng, và “in situ” có nghĩa là “vị trí ban đầu của nó”. DCIS được gọi là “không xâm lấn” bởi vì nó không lan tỏa ra khỏi ống dẫn sữa vào bất kỳ mô bình thường nào xung quanh vú. DCIS không đe dọa tính mạng, nhưng khi bị DCIS có thể làm tăng nguy cơ phát triển một ung thư vú giai đoạn cuối xâm lấn sau đó.
Khi bạn bị DCIS, bạn có nguy cơ cao hơn để ung thư vú quay trở lại hoặc phát triển một ung thư vú mới hơn là một người chưa bị ung thư vú trước đó. Hầu hết ung thư tái lại từ 5 đến 10 năm sau những chẩn đoán ban đầu. Cơ hội để ung thư tái lại là dưới 30 %.
Những phụ nữ đã phẫu thuật giữ lại vú khi bị DCIS mà không có xạ trị sẽ có nguy cơ từ 25 đến 30 % quay trở lại ở vài điểm khác trong tương lai. Nếu dùng xạ trị trong kế hoạch điều trị sau phẫu thuật thì nguy cơ ung thư quay lại là 15 %. Nếu quay trở lại sau điều trị DCIS trước đó, sự quay trở lại là không xâm lấn (DCIS trở lại) khoảng một nửa thời gian và xâm lấn khoảng một nửa thời gian (bản thân DCIS là KHÔNG xâm lấn).
Theo như Hiệp hội ung thư Mỹ, khoảng 60.000 trường hợp DCIS được chẩn đoán ở Mỹ mỗi năm, chiếm khoảng 1 trong 5 trường hợp ung thư vú mới.
Có hai lý do chính cho thấy con số này là quá lớn và ngày càng tăng:
* Con người đang sống lâu hơn. Khi chúng ta già, nguy cơ chúng ta bị bệnh ung thư vú càng tăng
* Nhiều người đang nhận chụp quang tuyến vú, và chất lượng của kỹ thuật này ngày được cải tiến. Với kỹ thuật tiến bộ này, nhiều bệnh ung thư được phát hiện sớm.
Ung Thư Biểu Mô Ống Tuyến Vú: Những Điều Cần Biết
Ung thư biểu mô ống tuyến vú tại chỗ thường do sự bất thường của các tế bào ở ống tuyến dẫn sữa tại vú. DCIS được xem như dạng sớm nhất của ung thư vú. Thường DCIS không xâm lấn. Nhưng nó không có nghĩa là nó không lan rộng tại ống tuyến vú và vẫn có nguy cơ xâm lấn xung quanh. DCIS thường được phát hiện khi tầm soát ung thư vú hay sờ thấy một khối bất thường ở vú.
Thường DCIS không phải bệnh cấp cứu. Do đó chúng ta cần phải đánh giá và cân nhắc phương án điều trị tốt nhất. Điều trị phải gồm bảo tồn vú và xạ trị kết hợp phẫu thuật. Một nghiên cứu cho thấy theo dõi chủ động có thể thay thế phẫu thuật.
Triệu chứng của Ung thư biểu mô ống tuyến vú
DCIS thường không có triệu chứng hay dấu hiệu gì. Tuy vậy, đôi khi có một số dấu hiệu sau:
DCIS thấy trên nhũ ảnh dưới dạng một điểm calci hóa có hình dạng và kích thước bất thường.
Khối u hay một vùng da đổi màu bất thường
Da dày hơn và núm vụ tiết dịch.
Bạn có thể hỏi thêm bác sĩ thời điểm tầm soát ung thư vú và nên lặp lại khi nào. Hầu hết khuyến cáo bạn nên đi tầm soát ung thư vú khi 40 tuổi trở lên. Thậm chí, ung thư vú vẫn có thể tái phát sau khi đã điều trị ban đầu.
Nguyên nhân dẫn đến ung thư biểu mô ống tuyến vú:
Hiện nay nguyên nhân DCIS vẫn chưa rõ ràng. Một số cho rằng DCIS là do những đột biến trong DNA tế bào ống dẫn sữa ở vú. Hiện nay vẫn chưa nghiên cứu rõ yếu tố nào làm kích hoạt sự tăng sinh bất thường tế bào đó. Tuy nhiên có thể lối sống không lành mạnh, môi trường và di truyền tăng nguy cơ mắc bệnh.
Các yếu tố làm tăng nguy cơ mắc ung thư biểu mô tuyến vú gồm:
Tiền sử bản thân bệnh lí ở vú lành tính, như loạn sản ống dẫn sữa không điển hình.
Gia đình có người bị ung thư vú
Chưa từng mang thai
Có con đầu sau 30 tuổi
Bắt đầu có kinh trước 12 tuổi
Mãn kinh sau 55 tuổi
Một số đột biến gen tăng nguy cơ ung thư vú, như BRCA1 và BRCA2
Chẩn đoán ung thư biểu mô ống tuyến vú (DCIS) như thế nào?
Một số công cụ giúp hỗ trợ chẩn đoán gồm:
Chụp nhũ ảnh. DCIS thường được phát hiện tình cơ trên phim chụp nhũ ảnh. Nếu kết quả cho thấy có một đốm trắng bất thường (vi calci hóa) với hình dạng và kích thước bất thường, có thể bác sĩ sẽ đề nghị bạn làm thêm một số xét nghiệm khác.
Sinh thiết.Trong quá trình sinh thiết, nhà chẩn đoán hình ảnh hay phẫu thuật viên sẽ dùng một đầu kim lấy một mẫu mô nhỏ ở vùng nghi ngờ có bất thường, dưới hướng dẫn siêu âm hay Xquang. Mẫu mô sẽ được gửi phòng xét nghiệm. Bác sĩ giải phẫu bệnh sẽ đánh giá xem liệu các mẫu mô này có phải bất thường không.
DCIS thường điều trị rất thành công. Thông thường sẽ phẫu thuật lấy khối u và ngăn chặn sự tái phát.
Ở hầu hết mọi người, phương án điều trị gồm:
Phẫu thuật bảo tồn (lumpectomy) u vú kết hợp liệu pháp xạ trị
Phẫu thuật lấy trọn một bên vú (mastectomy)
Một số trường hợp, phương án điều trị là:
Chỉ phẫu thuật lấy khối u
Phẫu thuật lấy khối u và liệu pháp hormon
Một số chỉ theo dõi chủ động kết hợp phẫu thuật
Sau khi chẩn đoán DCIS, một trong những quyết định hàng đầu là chọn giữa phẫu thuật lấy khối bướu hay phẫu thuật cắt trọn một bên vú.
Phẫu thuật cắt bỏ khối u. Đây là phương pháp loại bỏ vùng có DCIS và các mô xung quanh hoàn toàn bình thường. Nên vậy nó còn được gọi là phẫu thuật sinh thiết hay cắt bỏ vùng cục bộ. Thủ thuật này cho phép bảo tồn mô vú người bệnh nhất có thể, tùy thuộc số lượng mô bị cắt bỏ. Thường sẽ cần thêm bước tạo hình vú. Nghiên cứu cho thấy phụ nữ phải phẫu thuật cắt bỏ khối u thường có nguy cơ cao hơn khả năng tái phát bệnh. Tuy vậy, so với phẫu thuật trọn vú, tỉ lệ sống còn tương đương nhau. Nếu người bệnh có một số bệnh lí khác, nên cân nhắc các lựa chọn khác. Có thể phẫu thuật cắt bỏ khối u kèm liệu pháp hormone, chỉ cắt bỏ khối u hoặc không điều trị.
Cắt bỏ trọn một bên vú. Đây là phương pháp loại bỏ hoàn toàn mô một bên vú. Tạo hình vú trong quá trình làm thủ thuật cắt bỏ hoặc sau đó nhắm phục hồi tạo hình thẩm mĩ.
Hầu hết phụ nữ mắc DCIS (ung thư biểu mô ống tuyến vú) chỉ cần phẫu thuật cắt bỏ khối u. Tuy nhiên vẫn có thể cân nhắc chọn cắt bỏ trọn một bên vú nếu:
Khối DCIS kích thước lớn. Nếu dùng cách phẫu thuật lấy khối u sẽ làm mất đi tính thẩm mĩ
Có nhiều hơn một khối u DCIS. Phẫu thuật cắt bỏ khối u nhiều vùng khác nhau sẽ rất khó khăn.
Sau sinh thiết thấy các mô xung quanh khối u DCIS bất thường. Lúc này nên ưu tiên lựa chọn phẫu thuật cắt trọn một bên vú.
Không thể điều trị xạ trị. Thường sau phẫu thuật cắt bướu sẽ xạ trị. Tuy nhiên do nguyên nhân gì đó làm bạn không thể xạ trị được. Ví dụ như bạn đang mang thai 3 tháng đầu, mới xạ trị gần đây hay bản thân quá dễ bị tác dụng phụ của tia xạ, như hội chứng lupus ban đỏ hệ thống.
Người bệnh mong muốn cắt trọn một bên vú hơn chỉ cắt khối u.
Bởi vì khối u DCIS thường không xâm lấn, nên không cần phải phẫu thuật lấy hạch vùng gần đó. Nguy cơ bị ung thư hạch di căn là cực kì thấp. Tuy vậy nếu sinh thiết thấy các mô quanh khối u bướu bất thường hoặc bạn cần phẫu thuật cắt trọn bên vú, việc sinh thiết hạch gần đó hay phẫu thuật nạo hạch được xem như là một phần cuộc phẫu thuật.
Dùng tia X hay proton sóng cao tần nhằm cắt đốt các tế bào bất thường. Thường xạ trị sau khi đã cắt bỏ khối u. Nhằm mục đích chính là giảm khả năng tái phát ung thư hay diễn tiến sang dạng xâm lấn. Thông thường sẽ có một máy di chuyển quanh cơ thể người bệnh (external beam radiation), ngoài ra còn có loại chỉ xạ trị vùng mô vú bên bệnh (brachytherapy). Tuy nhiên nếu khối DCIS quá nhỏ và mức độ ác tính thấp thì có thể chỉ cần phẫu thuật đơn thuần.
Đây là cách ngăn chặn các hormon gắn vào các thụ thể của tế bào ung thư nhằm mục đích ngăn chặn sự tăng trưởng của khối u (thụ thể dương hormon bệnh ung thư vú).
Thường điều trị DCIS không cần dùng liệu pháp hormone. Tuy nhiên có thể cân nhắc kết hợp với phẫu thuật hoặc xạ trị nhằm giảm khả năng tái phát khối DCIS hay ung thư vú xâm lấn.
Một số phương pháp điều trị thay thế
Vẫn chưa ghi nhận hiện nay có phương pháp thay thế nào điều trị DCIS có thể làm giảm khả năng thành ung thư xâm lấn. Tuy vậy, thuốc thay thế hay thuốc hỗ trợ được dùng để giúp bạn giảm thiểu tác dụng phụ các phương pháp điều trị khác, như căng thẳng. Nếu bạn thấy khó ngủ hay bản thân suy nghĩ quá nhiều, bạn dễ cáu kỉnh hay buồn bã. Hãy trao đổi thêm với bác sĩ. Bác sĩ sẽ cân nhắc kết hợp một số loại thuốc giúp giảm triệu chứng. Theo khuyến cáo bác sĩ, một số liệu pháp sau nên được cân nhắc
Khi được chẩn đoán khối u ống tuyến dẫn sữa ở vú (DCIS), bạn sẽ rất sợ hãi. Để cảm thấy dễ chịu hơn, bạn nên:
Nghiên cứu các thông tin về bệnh DCIS và lựa chọn phương pháp điều trị phù hợp. Bạn có thể trao đổi thêm với bác sĩ để có được đầy đủ thông tin
Nhờ sự giúp đỡ mọi người. Bạn có thể trao đổi với bạn bè về cảm giác hay những lo âu bản thân. Ngoài ra còn có các đội nhóm sẽ lắng nghe và hỗ trợ bạn
Thay đổi một lối sống lành mạnh. Điều này sẽ giúp bạn cảm thấy tốt hơn. Ăn uống thực phẩm tốt sức khỏe như trái cây, rau củ và ngũ cốc nguyên cám. Tập thể dục ít nhất 30 phút mỗi ngày trong hầu hết ngày trong tuần. Ngủ đủ mỗi đêm sẽ giúp bạn được dễ chịu.
Ung Thư Biểu Mô Khoang Miệng
Ung thư biểu mô khoang miệng là một trong những ung thư biểu mô đường hô hấp, tiêu hoá trên.
Khoang miệng bao gồm: Lưỡi di động, sàn miệng, lợi hàm dưới, lợi hàm trên và vòm miệng phần cứng, niêm mạc má trong, khe liên hàm, môi dưới, môi trên và mép.
CHẨN ĐOÁN
Triệu chứng
Khi các triệu chứng lâm sàng biểu hiện thì thường là khối u đã xâm lấn rộng và đôi khi đã là giai đoạn muộn.
Các triệu chứng có thể là
Cảm giác vướng trong miệng.
Tăng tiết nước bọt đôi khi có máu.
Nói khó.
Nuốt đau.
Đau lan lên tai (cảm giác).
Đôi khi được phát hiện sớm bải đi khám bệnh thường kỳ, hoặc bởi thầy thuốc răng hàm mặt khi bệnh nhân đi chữa răng… hoặc sờ thấy hạch dưới cằm hoặc cổ.
Nuốt đau nhói lên tai.
Nói khó khăn.
Khạc ra đờm nhầy, có lẫn máu thường là có mùi hôi thối.
1/3 các trường hợp đến khám vì có hạch cổ, mà chưa có dấu hiệu lâm sàng rõ rệt.
Các dấu hiệu tổn thương tại chỗ
Các hình thái có thể gặp: Nụ sùi hoặc loét hoặc vừa sùi vừa loét bờ nham nhở, sờ vào bệnh nhân đau và vướng, u không có ranh giới rõ ràng, cứng, dễ chảy máu.
Khi khám cần phải đánh giá:
+ Mức độ xâm lấn vào đường giữa, vào trong hay ra phía trước.
+ Mức độ xâm lấn vào lưỡi di động.
+ Mức độ xâm lấn vào phần lưỡi cố định.
+ Mức độ xâm lấn vào xương hàm phía trước, và xâm nhiễm ra da.
Sinh thiết rất cần cho chẩn đoán: Gây tê, nếu khó khăn phải phải gây mê để sinh thiết, nhất là những trường hợp u thâm nhiễm hoặc khi u ở sâu.
Khám tai mũi họng
Phát hiện tổn thương phối hợp, có thể khám bằng gương soi gián tiếp, nếu cần thiết thì nội soi để phát hiện.
Khám hệ hạch
Sờ nắn hệ thống hạch cổ, hạch dưới hàm, hạch dưới cằm. Khám cả hai bên cổ phát hiện hạch sờ thấy và ghi nhận các vị trí hạch.
Chẩn đoán hình ảnh
Chụp Xquang thông thường: hay được dùng để phát hiện tổn thương xâm lấn xương, hay xâm lấn sâu.
Chụp phim cắt lớp hay cộng hưởng từ: Để phát hiện những khối u xâm lấn vào các cơ lưỡi hoặc ở các vị trí khó khám bằng lâm sàng.
Khám toàn thân
Phát hiên di căn, các ung thư phổi họp hoặc với các bệnh khác, đánh giá khả năng điều trị tuy theo từng bệnh nhân.
Khám răng hàm mặt
Nhằm đặt ra khả năng làm hàm giả hoặc tạo hình trong hoặc sau phẫu thuật rộng.
Đánh giá mức độ tiến triển: Theo TNM (IUCC-2002)
Khối II nguyên phát (T)
Tx: Không đánh giá được u nguyên phát bằng lâm sàng
To: Không có u nguyên phát
Tis: Ung thư tại chỗ
T1: Đường kính < 2cm
T2: Đường kính 2cm <u < 4cm
T 4: u xâm lấn sâu vào xương da hoặc cơ
T 4j Môi: u đã xâm lấn qua màng xương, dây thần kinh răng dưới, sàn miệng
hoặc da (cằm hoặc mũi).
T 4a Khoang miệng: Khối u xâm lấn qua màng xương, vào lớp cơ sâu ngoài của lưỡi (cơ cằm lưỡi, cơ dưới lưỡi, cơ vòm miệng và cơ trâm lưỡi, xoang hàm hoặc da mặt)
T 4b: Môi và khoang miệng: Khối u xâm lấn cơ nhai, các xương bướm hoặc nền sọ hoặc bao bọc động mạch cảnh trong.
Hạch vùng (N)
Nx: Khổng đánh giá chính xác được sự di căn hạch.
No: Không có hạch di căn
N1: 1 hạch duy nhất cùng bên đường kính < 3cm
N 2b: Nhiều hạch cùng bên đường kính < 6cm
N 2c: Hạch 2 bên hoặc đối bên đường kính < 6cm
Chú ý: Hạch ở giữa được coi như là hạch cùng bên
Di căn xa (M)
Mx: Không đánh giá chính xác được sự di căn xa
Mo: Chưa di căn xa
M1: Có di căn xa
Xếp loại giai đoạn:
ĐIỀU TRỊ
Điều trị ung thư biểu mô khoang miệng bao gồm điều trị hệ thống hạch cổ và khối u nguyên phát.
Thái độ và nguyên tắc chung
Điều trị hệ thống hạch cổ là một yếu tố quan trọng trong việc tiên lượng quá trình tiến triển của ung thư biểu mô khoang miệng nói riêng và ung thư biểu mô đường hô hấp. tiêu hoá nói chung. Thái độ điều trị phụ thuộc vào 2 yếu tố:
Trường hợp sờ thấy hạch trên lâm sàng: Đánh giá tính chất và sự tiến triển của hạch.
Trường hợp không sờ thấy hạch trên làm sàng: Người ta có thể dự tính được vùng hạch thường hay bị xâm lấn dựa vào vị trí của khối u nguyên phát hoặc bằng các phương pháp cận lâm sàng như: Chụp cắt lớp TDM, IRM hay qua siêu âm.
Về nguyên tắc điều trị, phải xử lý hệ thống hạch cùng với khối u nguyên phát. Tuy nhiên cũng có 1 số trường hợp ngoại lệ: ví dụ ung thư khoang miệng điều trị bằng Curie liệu pháp.
Quyết định điều trị sẽ phụ thuộc vào các yếu tố sau:
+ Loại mô bệnh học của tổn thương nguyên phát: 75-80% các trường hợp carcinoma ít hoặc không biệt hoá cho di căn hạch.
+ Vị trí của u nguyên phát:
Đối với trường hợp tổn thương nguyên phát được xạ trị, tuỳ tình huống có thể kèm theo phẫu thuật lấy hạch còn lại sau hai tháng xạ trị.
Trường hợp tổn thương nguyên phát được điều trị bằng phẫu thuật: Hệ thống hach sẽ được vét hạch rộng hoặc vét hạch chọn lọc tuỳ theo kích thước của u nguyên phát và sự xâm lấn hạch được phát hiện trên lâm sàng.
Điều trị những trường hợp đặc biệt:
Với những tổn thương nguyên phát: Đã được điều trị bằng Curie liệu pháp thì hệ thống hạch sẽ được điều trị bằng phẫu thuật. Phẫu thuật lấy hạch còn lại được thực hiện hai hoặc ba tháng sau khi xạ trị. Đối với trường hợp tổn thương nguyên phát đã được điều trị khỏi người ta sẽ thực hiện lấy hạch ở vùng xâm lấn ban đầu. Nếu hạch N3 người ta sẽ vét hạch rộng tùy theo sự xâm lấn hạch lúc ban đầu.
Phẫu thuật tái tạo được chỉ định trong các trường hợp:
+ Phẫu thuật lớn lấy bỏ các u nguyên phát có kèm theo xử lý hạch hoặc không xử lý hạch.
+ Các di chứng có hốc hoặc không có hốc trong khoang miệng, đường hô hấp trên do việc cắt bỏ các vùng bị khối u xâm lấn rộng quá trình xạ trị hoặc phẫu thuật. Những trường hợp đó người ta đã áp dụng phương pháp phẫu thuật tạo hình quay vạt da cơ hoặc làm phương pháp tiến bộ hơn là: Vạt da cơ có mạch máu nuôi.
Phẫu thuật sau hóa trị: Trong các trường hợp u có kích thước lớn, phát triển nhanh mà không có thể phẫu thuật rộng ngay được, người ta dùng hoá trị toàn thân hay hoá trị động mạch nhằm giảm thể tích và sự phát triển của khối u. Sau đó người ta tiến hành phẫu thuật cắt bỏ rộng u còn lại sau khi hóa trị.
Chống chí định vét hạch trong các trường hợp sau:
+ Có hạch trong khi u đang tiến triển nhanh: Có thể xạ trị hoặc hoá trị trước, sau đó đánh giá khả năng phẫu thuật.
+ Hạch không thể phẫu thuật được do xâm lấn tại chỗ: (ví dụ: hạch N3 cố định vào phía sâu). Trường hợp này sẽ được xạ trị phối hợp với hoá trị.
Tóm lại:
Điều trị phẫu thuật chiếm một vị trí quan trọng trong điều trị hệ thống hạch vùng cổ.
Kỹ thuật vét hạch cổ bảo tổn ngày càng được áp dụng rộng rãi do đưa ra được hiệu quả tương đương như vét hạch cổ cổ điển mà tỷ lệ di chứng lại rất thấp.
Với phương thức xạ trị hậu phẫu thì tuỳ theo tính chất xâm lấn của hạch. Nếu sau vét hạch có N(+) nên xạ trị hậu phẫu vào vùng hạch.
Điều trị hạch cổ
Phẫu thuật vét hạch cổ
Từ trước tới nay, phẫu thuật vét hạch cổ được xác định là lấy bỏ toàn bộ hệ thống hạch cổ cùng với mạng mạch bạch huyết, tổ chức mỡ và cân vùng cổ. Tuy nhiên hiện nay người ta cố gắng định khu giải phẫu vùng hạch, nhằm một mặt mô tả vùng hạch được chú ý để vét hạch, mặt khác cho phép kiểm tra được vùng hạch khác.
Có sáu vùng hạch được chia thành ô như sau:
I-Nhóm dưới cằm, dưới hàm.
II-Nhóm cảnh cao (bao gồm nhóm dưới cơ nhị thân và nhóm hạch gai trên).
Ilbis – Nhóm cạnh gai.
III – Nhóm cảnh giữa.
IV-Nhóm sau dưới (bao gồm các nhóm gai giữa, dưới và phần sau của nhóm hạch cổ ngang).
V-Nhóm trước cổ.
Dựa vào sự phân vùng hệ thống hạch, người ta đã vét hạch cổ với nhiều phương pháp tuỳ theo mục đích điều trị.
Bao gồm việc vét tất cả các nhóm hạch, cơ ức đòn chũm, cơ nhị thân hoặc bó sau của nó, tĩnh mạch cảnh trong, thần kinh gai và tuyến dưới hàm. Ngược lại, bảo vệ các thành phần sau: Động mạch cảnh, dây thần kinh phế vị, thần kinh giao cảm cố. thần kinh hoành, thần kinh dưới lưỡi, nhánh thần kinh cằm mặt.
Vét hạch triệt căn cài tiến (chức năng)
Là hạn chế một cách tối đa việc cắt bỏ tĩnh mạch cảnh trong, cơ ức đòn chũm và thần kinh gai.
Chi định này thu hẹp ớ những bệnh nhân có hạch bị xâm lấn trung bình.
Phương pháp này giữ lại một hoặc nhiều cấu trúc mà trong vét hạch triệt căn phá huý, đồng thời vẫn lấy được các vùng hạch.
Chỉ quan tâm đến việc vét một hoặc một vài nhóm hạch.
Lấy đi một vài nhóm hạch và được áp dụng trong trường hợp hạch có kích thước nhỏ hơn 2cm. Trường hợp này phải thực hiện sinh thiết tức thì. Nếu có xâm lấn hạch thì phải thực hiện phẫu thuật vét hạch cổ chức năng (biến đổi) ngay lập tức.
Xạ trị hậu phẫu
Xạ trị hậu phẫu được chỉ định tuỳ theo xét nghiệm mô bệnh học của hạch và quá trình thực hiện phẫu thuật vét hạch:
Nếu bệnh phẩm sau mổ cho thấy hạch xâm lấn và phá vỡ vỏ (N(+), R(+) thì xạ trị toàn cổ 50Gy và ưu tiên 15Gy trên vùng phá vỡ vỏ hạch.
Nếu trên bệnh phẩm sau mổ thấy hạch xâm lấn mà không phá vỡ vỏ N(+), R(-) thì xạ trị hậu phẫu được cân nhắc tuỳ theo số lượng hạch xâm lấn và kích thước vị trí của u nguyên phát.
Xạ trị hậu phẫu đối với những tổn thương có nguy cơ cao nếu nghi ngờ chưa cắt rộng được tổn thương.
Không xạ trị nếu ít hơn 3 hạch xâm lấn và những vùng tổn thương u nguyên phát ít có nguy cơ cho xâm lấn hạch (môi mép và vòm khẩu).
Điều trị ung thư biểu mô của lưỡi di động
Điều trị tổn thương của lưỡi
Tổn thương bề mặt (không xâm lấn cơ).
Nếu tổn thương rất khu trú thì Radium 65-75 Gy hoặc phẫu thuật.
Nếu tổn thương ít khu trú hơn (đặc biệt có loạn sản ở bên cạnh) thì phẫu thuật cắt một phần lưỡi.
Trường hợp khối u <6cm, chưa xâm lấn tới đường giữa, nếu có khả năng phẫu thuật thì:
+ Hoá trị (ưu tiên hóa chất động mạch). Sau đó cắt 1/2 lưỡi + xạ trị ngoài (hậu phẫu). Quyết định này được cân nhắc tuỳ theo đánh giá sau phẫu thuật và giải phẫu bệnh.
+ Radium liệu pháp (được cân nhắc tuỳ theo sự lui bệnh sau hóa trị).
Trong trường hợp chống chỉ định phẫu thuật do bệnh toàn thân thì xạ trị trải liều cổ điển (50Gy) phối hợp với Radium liệu pháp 20-25Gy.
+ Hoá trị (ưu tiên hoá chất động mạch). Sau đó 1/2 lưỡi + xạ trị ngoài (hậu phẫu). Quyết định này được bàn luận tuỳ theo đánh giá sau phẫu thuật và mô bệnh học.
+ Hoặc Radium liệu pháp (được cân nhắc tuỳ theo sự lui bệnh sau hóa trị).
Trong trường hợp chống chỉ định phẫu thuật do bệnh toàn thân thì:
+ Hoá trị: Ưu tiên hoá chất động mạch một hoặc 2 bên + cắt lưỡi và tạo hình bằng vạt da cơ + xạ trị hậu phẫu.
Điều trị hệ thống hạch cổ
Xem phần điều trị hạch.
Điều trị ung thư biểu mô vùng sàn miệng
Điêu trị tổn thương nguyên phát
Nếu tổn thương kém khu trú: Dùng phẫu thuật cắt bỏ vùng chậu sàn miệng hoặc chậu sàn miệng cằm (tuỳ theo việc có cắt xương hàm hay không mà quyết định tạo hình) + xạ trị hậu phẫu tuỳ theo đánh giá sau phẫu thuật và giải phẫu bệnh của bệnh phẩm.
Nếu không có chỉ định phẫu thuật: thì xạ trị liều cao giống như phần lưỡi di động.
Điều trị hệ hạch cổ (Chung cho ung thư biểu mô của lưỡi + sàn miệng)
Không sờ thấy có hạch.
Trường hợp 1: Tổn thương nguyên phát được điều trị bằng curie liệu pháp.
+ Nếu tổn thương khu trú và trên bề mặt nhỏ hơn hoặc bằng lcm thì chỉ lấy u đơn thuần và theo dõi hạch.
+ Nếu tổn thương nguyên phát ở bên hoặc phía sau: vét hạch ở tam giác cố (nhóm I. II,III) cùng bên, bảo tồn các cơ quan vùng cổ đồng thời vét hạch ở tam giác đối bên nếu N(+) khi làm sinh thiết tức thì.
+ Nếu tổn thương ở giữa hoặc xung quanh đường giữa thì vét hạch đầy đủ vùng tam giác cổ 2 bên.
Trường hợp 2:
+ Tốn thương nguyên phát được điều trị bằng phẫu thuật.
+ Vét hạch cổ theo nguyên tắc được dự kiến tuỳ thuộc vào kích thước của u nguyên phát.
Trường hợp 3: Tổn thương nguyên phát được xạ trị + curie liệu pháp. Hệ thống hạch được xạ trị liều 50Gy”
Hạch sờ thấy :
Trường hợp 1:
+ Tổn thương nguyên phát được điều trị bằng curie liệu pháp.
+ Tổn thương ở bên và sau: vét hạch cổ chức năng ở tam giác cổ (Nhóm I,II,III) cùng bên và vét hạch cổ ở tam giác đối bên nếu N(+) khi sinh thiết tức thì.
+ Tổn thương ở giữa: Vét hạch ở tam giác cổ 2 bên tuỳ theo định khu của hạch và kết quả sinh thiết tức thì.
Trường hợp 2:
+ Tổn thương nguyên phát được xạ trị liều cao hoặc xạ trị + Curie liệu pháp. Trong trường hợp hạch còn lại, phẫu thuật lấy hạch 2-3 tháng sau khi xạ trị.
+ Không thể phẫu thuật được hạch thì phối hợp hoá trị và xạ trị hoặc xạ trị liều cao.
Xạ trị ngoài
Được thực hiện kết hợp với Curie liệu pháp liều cao ở khối u nguyên phát. Nếu N (+) xạ trị hệ hạch cổ 50Gy và tăng thêm trên những vùng hạch bị phá vỡ vỏ. Hoặc kết hợp với phẫu thuật (hoặc sau hoá trị):
T Phẫu thuật đủ và N(-): Không xạ trị.
T Phẫu thuật đủ và/hoặc N(+), R(-): Xạ trị 50Gy
T Phẫu thuật không đủ và/hoặc N(+) R(+): Xạ trị u 65Gy trên diện u và vùng vỡ vỏ hạch.
Phẫu thuật lấy hạch còn lại sau xạ trị 50Gy Không bổ xung xạ trị dự phòng.
Trong trường hợp vét hạch chọn lọc ở tam giác cổ, nếu có từ 1 đến 2 hạch bị xâm lấn nhưng chưa phá vỡ vỏ ở chặng hạch đầu tiên mà phẫu thuật đối với T đủ thì xạ trị hậu phẫu cần phải cân nhắc. Mặt khác nếu sự xâm lấn hạch 1 bên rất nhiều mà ở đối bên đã được kiểm tra bằng phẫu thuật thì chỉ xạ trị ở một bên cổ.
Điều trị ung thư biểu mô vùng lợi hàm
Khối u giới hạn ở bờ lợi, không có hoặc có xâm lấn xương ở mức độ ít (bong màng xương): Phẫu thuật giới hạn và bảo tồn một phần xương hàm (giữ lại khung xương).
Tổn thương có kèm theo tiêu huỷ xương: cắt đoạn xương hàm. Chỉ định có hoặc không xạ trị hậu phẫu tuỳ theo chất lượng phẫu thuật và sự xâm lấn hạch.
Khối u xâm lấn vào sàn miệng, lưỡi và má: Tham khảo với những tổn thương nguyên phát của những vùng này.
Chú ỷ: Trong những trường hợp chống chỉ định phẫu thuật thì xạ trị 70Gy.
Điều trị hệ hạch: Giống phần chung.
Ung thư biểu mô lợi hàm trên và vòm miệng phần cứng
Điều trị tổn thương nguyên phát
Khối u đường kính <3cm: Phẫu thuật đơn thuần, không xạ trị hậu phẫu nếu phẫu thuật đủ và No.
Loại 1: Khối u phẫu thuật được (tiêu chuẩn toàn thân, tại chỗ, tại vùng).
+ Đối với u nguyên phát:
+ Thì 1: Hoá trị Cisplatinum, 5FU.
+ Thì 2: Phẫu thuật rộng hoặc phẫu thuật theo mức độ lui bệnh sau khi hoá trị.
+ Thì 3: Xạ trị hậu phẫu 65Gy trong vùng khối u và 50Gy trên chặng hạch đầu tiên.
Loại 2: Bệnh nhân không phẫu thuật được.
+ Hoá trị tại chỗ hoặc toàn thân sau đó đánh giá lại tổn thương + Nếu có thể được thì phẫu thuật và xạ trị hậu phẫu.
+ Nếu không chỉ xạ trị đơn thuần vùng u nguyên phát và hệ hạch.
+ Tuỳ tình huống có thể phối hợp xạ trị và hoá trị.
+ Nếu có chống chỉ định hoá trị, điều trị xạ trị liều cao nhưng chia nhỏ liều.
No: Xạ trị trên chặng đầu tiên của hạch.
N(+): Phẫu thuật lấy hạch hoặc vét hạch tuỳ theo mức độ hạch có trên lâm sàng. Sau đó có thể xạ trị hậu phẫu nếu N(+), R(+).
Điều trị ung thư biểu mô khe liên hàm
Điều trị tổn thương u nguyên phát
Khối u có thể phẫu thuật được: Phẫu thuật cắt bỏ miệng – họng – xương hàm + xạ trị hậu phẫu.
Khối u không thể phẫu thuật được do:
+ Khối u lan ra các bộ phận quan trọng.
+ Hoặc tính chất lan toả không có giới hạn.
+ Hoặc bệnh nhân từ chối.
+ Hoặc bệnh toàn thân không phẫu thuật được.
Tia xạ 70Gy trải liều bình thường hoặc phối hợp hóa trị và xạ trị.
Điều trị hệ hạch (Giống như phần điều trị hệ hạch cổ chung)
Điều trị ung thư biểu mô niêm mạc má phía trong
Điều trị tổn thương nguyên phát
Khối u đường kính <5cm, không xâm lấn vào lợi, không xâm lấn vào khe liên hàm: Phẫu thuật lấy u + tạo hình + xạ trị hậu phẫu (tuỳ theo bệnh phám sau mổ). ,
+ Có thể phẫu thuật được.
. Hoá trị động mạch.
. Phẫu thuật lấy u có thể tạo hình hoặc không.
. Xạ trị hậu phẫu tuỳ theo chất lượng phẫu thuật.
+ Không phẫu thuật được: Xạ trị đơn thuần 70Gy trải liều cổ điển.
Điều trị hệ hạch(Giống phần điều trị hạch cổ phần chung)
Điều trị ung thư biểu mô môi dưới
Khối u không có xâm lấn vào lợi và xương: Phẫu thuật lấy u + tạo hình. Khối u có xâm lấn vào lợi và xương
+ Có thể phẫu thuật được: Điều trị hoá chất (ưu tiên hoá chất động mạch) sau đó phẫu thuật rộng và tạo hình.
+ Không có khả năng phẫu thuật: xạ trị liều cao.
No:
+ Nếu xạ trị khối u: Cần phải phẫu thuật hạch khi điều kiện theo dõi bệnh nhân khó khăn hoặc tổn thương 2-4cm có kèm theo sự xâm lấn vào phần môi ướt hoặc u có đường kính 4-6cm.
+ Nếu khối u nguyên phát điều trị bằng phẫu thuật: Vét hạch cổ toàn bộ 2 bên tuỳ theo mức độ xâm lấn của hạch (thông qua kết quả sinh thiết tức thì hạch) + xạ trị hậu phẫu nếu N(+).
Hạch sờ thấy được:
+ Phẫu thuật vét hạch rộng 2 bên có bảo tổn hoặc không.
+ Tuỳ thuộc vào sự xâm lấn cấu trúc hạch và mô bệnh học.
+ Xạ trị hậu phẫu tuỳ thuộc vào đánh giá mô bệnh học sau mổ.
Điều trị ung thư biểu mô môi trên
Khối u có kích thước đường kính <5cm(Giống như môi dưới)
Khối u có kích thước lớn, có phá huỷ cấu trúc
Hóa trị: Ưu tiên hoá chất động mạch sau đó phẫu thuật rộng và tạo hình.
– Xử lý hạch:
+ Hạch không sờ thấy: Không cần xử lý, chỉ cần theo dõi.
+ Hạch sờ thấy: Vét hạch cùng bên hoặc 2 bên nếu sinh thiết tức thì (+).
Điều trị ung thư vùng mép
+ Hóa trị (ưu tiên hoá chất động mạch).
+ Điều trị phối hợp đa hoá chất:
. Ngày đầu: Cisplatin 100mg/m 2.
. 5 ngày tiếp theo: 5FU 1000mg/m 2/ngày.
+ Điều trị đơn hoá chất: 5FƯ 1000mg/m 2/ngày (7 ngày).
+ Xạ trị ngoài 70Gy hoặc xạ trị ngoài 50Gy .
+ Curie liệu pháp 25-35Gy.
Điều trị hệ hạch (Giống như của môi)
Tóm lại: Điều trị ung thư khoang miệng
Đối với khối u:
+ u nhỏ: Phẫu thuật đơn thuần.
+ u rất lớn không thể phẫu thuật được: Xạ trị đơn thuần hoặc hoá trị động mạch kết hợp với xạ trị.
Đối với hệ hạch:
+ Không phát hiện được hạch di căn: Theo dõi sát.
+ Phát hiện được hạch di căn: Vét hạch theo nhóm. Xạ trị hậu phẫu hệ hạch khi có hơn 3 hạch (+) hoặc hạch đã phá vỡ vỏ.
Hóa trị động mạch:
Điều trị phối hợp đa hoá trị:
+ Ngày đầu: Cisplatin 100mg/m 2.
+ 5 ngày tiếp theo: 5FU 1000mg/m 2/ ngày.
Điều trị đơn hoá chất: 5 FU 1000mg/m 2/ngày X 7 ngày
Cập nhật thông tin chi tiết về Ung Thư Vú Biểu Mô trên website Sept.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!