Yếu Tố Nguy Cơ Ung Thư Buồng Trứng / Top 11 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Sept.edu.vn

Các Yếu Tố Nguy Cơ Gây Nên Ung Thư Buồng Trứng

Ung thư buồng trứng là một trong những bệnh ung thư hay gặp của chị em phụ nữ, có một số yếu tố có thể tăng nguy cơ mắc căn bệnh này.

Ung thư buồng trứng thường hình thành và diễn biến âm thầm. Các chị em phụ nữ thường phát hiện căn bệnh này khi tình cờ đi khám sức khỏe hoặc khám phụ khoa. Hiện nay, nguyên nhân của bệnh ung thư buồng trứng vẫn chưa được biết một cách chính xác.

Tuy nhiên, các nhà khoa học đã chứng minh có một số yếu tố có thể làm tăng nguy cơ mắc căn bệnh này. Nếu có một hoặc nhiều hơn các yếu tố nguy cơ sau, bạn sẽ có nguy cơ mắc bệnh cao hơn so với những người phụ nữ khác.

Các yếu tố nguy cơ bao gồm:

Tuổi tác

Nguy cơ mắc bệnh tăng dần theo độ tuổi. Bệnh xuất hiện chủ yếu ở phụ nữ trên 50 tuổi, đây là độ tuổi đã mãn kinh hoặc đang trong thời kỳ mãn kinh. Tuy nhiên, bệnh vẫn có thể gặp phải ở những phụ nữ trẻ hơn.

Ở giai đoạn mãn kinh, chị em thường phải trải qua những biến đổi về thể trạng và tâm lý. Hoạt động tiết chế của buồng trứng bắt đầu bị rối loạn và có thể ngưng hoạt động hẳn. Điều này gây suy giảm lượng Estrogen trong máu, nhất là Estradiol. Do đó, nguy cơ mắc ung thư buồng trứng ở giai đoạn này cũng cao hơn.

Do yếu tố sinh sản

Những phụ nữ độc thân không sinh con hoặc mất khả năng sinh sản, hoặc sinh con muộn ở ngoài độ tuổi 30, không cho con bú sữa mẹ cũng có nguy cơ mắc ung thư buồng trứng cao hơn so với những phụ nữ khác.

Các nhà nghiên cứu đã chứng minh rằng việc cho con bú mẹ sẽ giúp trì hoãn thời gian rụng trứng đồng thời làm giảm mức độ Oestrogen trong buồng trứng. Thời kỳ rụng trứng càng nhiều thì rủi ro hình thành nên các tế bào đột biến gây bệnh càng cao.

Đó là lý do mà những chị em phụ nữ không sinh con, sinh ít con hoặc không nuôi con bằng sữa mẹ thường có nguy cơ phải đối mặt với ung thư buồng trứng cao hơn.

Kinh nguyệt

Những người có kinh nguyệt sớm hoặc mãn kinh muộn cũng có nguy cơ mắc bệnh cao hơn.

Lối sống

Các lối sống thiếu khoa học như thường xuyên ăn nhiều chất béo, hút thuốc lá, uống rượu, lười vận động, béo phì, tăng cân cũng làm tăng nguy cơ mắc bệnh.

Tiền sử bệnh của bản thân

Những phụ nữ có tiền sử mắc bệnh ung thư vú, ung thư đại trực tràng cũng là một trong những đối tượng có nguy cơ mắc ung thư buồng trứng cao hơn.

Ngoài ra, sử dụng liệu pháp hoocmon sau mãn kinh (uống thuốc, tiêm Estrogen…), dùng thuốc kích thích phóng noãn để điều trị vô sinh… cũng là những yếu tố nguy cơ của ung thư buồng trứng.

Khả năng chữa khỏi căn bệnh này ở chị em phụ nữ còn tùy thuộc vào bệnh được phát hiện vào giai đoạn nào.

Nếu phát hiện sớm, cơ hội chữa khỏi bệnh càng cao. Do đó, khi có những dấu hiệu bất thường trong cơ thể, đặc biệt là khi bạn có một hoặc nhiều các yếu tố nguy cơ trên, thì nên đi khám sức khỏe sinh sản định kỳ để đề phòng và phát hiện sớm bệnh ung thư buồng trứng nếu có.

Những Yếu Tố Tiềm Ẩn Nguy Cơ Gây Ung Thư Buồng Trứng

Những phụ nữ bị ung thư buồng trứng do bị thừa hưởng gien đột biến hiện nay có xu hướng tốt hơn về tiên lượng so với những bệnh nhân không có tiền sử gia đình bị ung thư buồng trứng vì những người này luôn luôn hàng năm đi khám sàng lọc để phát hiện sớm sự bất thường và giải quyết kịp thời khi ung thư vú còn ở giai đoạn rất sớm.

Ung thư vú:

Nếu bạn bị ung thư vú, bạn cũng có nguy cơ cao bị ung thư buồng trứng. Có một số lý do với nguy cơ này. Một số nguy cơ sinh sản đối với ung thư buồng trứng cũng là tăng nguy cơ ung thư vú. Nếu bạn có tiền sử trong gia đình có người bị ung thư vú, bạn cũng có thể thừa hưởng đột biến gien BRCA1 hoặc BRCA2.

Hầu hết các ung thư buồng trứng phát triển sau thời kỳ mãn kinh. Một người phụ nữ được xem là mãn kinh là phải sau ít nhất một năm không thấy kinh trở lại. Nguy cơ ung thư sẽ tăng lên khi bạn từ 70 trở lên và 50% số bệnh nhân bị ung thư buồng trứng gặp ở tuổi trên 63. Mặc dù hầu hết các trường hợp bị ung thư buồng trứng được chẩn đoán ở những phụ nữ cao tuổi nhưng bệnh vẫn có thể gặp ở những phụ nữ trẻ tuổi.

Tình trạng mang thai:

Những phụ nữ có ít nhất một lần mang thai có nguy cơ ung thư buồng trứng thấp hơn những phụ nữ không mang thai. Tương tự, những phụ nữ có ít nhất một lần mang thai có nguy cơ ung thư buồng trứng thấp hơn những phụ nữ không mang thai. Tương tự, những người sử dụng thuốc tránh thai uống có thể phòng được ung thư buồng trứng.

Tiền sử sinh sản:

U nang buồng trứng:

Nang buồng trứng là một bộ phận bình thường của sự rụng trứng ở những phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ. Tuy nhiên, các nang được hình thành sau thời kỳ mãn kinh có nguy cơ cao bị ung thư buồng trứng. Những nang ung thư thường có kích thước tăng nhanh và tăng cùng với tăng tuổi đời.

Theo Healthplus.vn

Các Yếu Tố Nguy Cơ Ung Thư Phổi

1. Thuốc lá, xì gà và hút thuốc lào:

Hút thuốc lá là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất đối với ung thư phổi. Thuốc lá, xì gà và hút thuốc lào đều làm tăng nguy cơ ung thư phổi.

Các nghiên cứu cũng cho thấy nguy cơ ung thư phổi do hút thuốc lá tăng theo số lượng thuốc lá hút mỗi ngày và số năm hút thuốc. Những người hút thuốc có nguy cơ mắc ung thư phổi cao gấp 20 lần so với những người không hút thuốc.

2. Khói thuốc:

Tiếp xúc với khói thuốc lá thụ động cũng là một yếu tố nguy cơ ung thư phổi. Khói thuốc là khói bốc ra từ thuốc lá đang cháy hoặc sản phẩm thuốc lá khác, hoặc bốc ra bởi những người đang hút thuốc. Những người hít phải khói thuốc lá tiếp xúc với các tác nhân gây ung thư giống như những người hút thuốc, mặc dù với số lượng nhỏ hơn. Hít khói thuốc lá được gọi là hút thuốc không tự nguyện hoặc thụ động.

3. Tiền sử gia đình:

Có tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư phổi là yếu tố nguy cơ gây ung thư phổi. Những người có người thân bị ung thư phổi có thể bị ung thư phổi cao gấp đôi so với những người không có người thân bị ung thư phổi. Bởi vì hút thuốc lá có xu hướng tăng trong các gia đình và các thành viên gia đình tiếp xúc với khói thuốc lá, thật khó để biết liệu nguy cơ ung thư phổi gia tăng là từ tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư phổi hay do tiếp xúc với khói thuốc lá.

4. Nhiễm HIV:

5. Yếu tố rủi ro môi trường:

Phơi nhiễm phóng xạ: Tiếp xúc với bức xạ là yếu tố nguy cơ gây ung thư phổi. Bức xạ bom nguyên tử, xạ trị, chẩn đoán hình ảnh và radon là nguồn tiếp xúc với bức xạ

Bức xạ bom nguyên tử: Tiếp xúc với bức xạ sau vụ nổ bom nguyên tử làm tăng nguy cơ ung thư phổi.

Xạ trị: Liệu pháp xạ trị vào ngực có thể được sử dụng để điều trị một số bệnh ung thư, như ung thư vú và ung thư hạch biểu hiện tại trung thất. Xạ trị sử dụng tia X, tia gamma hoặc các loại phóng xạ khác có thể làm tăng nguy cơ ung thư phổi. Liều lượng phóng xạ nhận được càng cao, nguy cơ càng cao. Nguy cơ ung thư phổi sau xạ trị cao hơn ở những bệnh nhân hút thuốc so với những người không hút thuốc.

Chẩn đoán hình ảnh: Các chỉ định chẩn đoán hình ảnh, chẳng hạn như chụp CT, cho bệnh nhân tiếp xúc với bức xạ. Chụp CT xoắn ốc liều thấp làm cho bệnh nhân tiếp xúc với bức xạ ít hơn so với chụp CT liều cao hơn. Trong sàng lọc ung thư phổi, việc sử dụng CT scan xoắn ốc liều thấp có thể làm giảm tác hại của bức xạ.

Radon: Radon là một loại khí phóng xạ xuất phát từ sự phân hủy uranium trong đá và đất. Nó thấm qua mặt đất và rò rỉ vào không khí hoặc nguồn nước. Radon có thể vào nhà thông qua các vết nứt trên sàn, tường hoặc nền móng và mức độ radon có thể tích tụ theo thời gian.

Phơi nhiễm nơi làm việc: Các nghiên cứu cho thấy rằng việc tiếp xúc với các chất sau đây làm tăng nguy cơ ung thư phổi:

Amiăng.

Asen.

Crom.

Niken.

Beryllium.

Cadmium.

Tar và bồ hóng.

Những chất này có thể gây ung thư phổi ở những người tiếp xúc với chúng tại nơi làm việc và chưa bao giờ hút thuốc. Khi mức độ tiếp xúc với các chất này tăng lên, nguy cơ ung thư phổi cũng tăng theo. Nguy cơ ung thư phổi thậm chí còn cao hơn ở những người tiếp xúc và hút thuốc.

6. Ô nhiễm không khí:

Các nghiên cứu cho thấy sống ở những khu vực có mức độ ô nhiễm không khí cao hơn làm tăng nguy cơ ung thư phổi.

7. Bổ sung beta carotene ở người nghiện thuốc lá nặng

Uống bổ sung beta carotene (thuốc viên) làm tăng nguy cơ ung thư phổi, đặc biệt ở những người hút thuốc hút một hoặc nhiều gói mỗi ngày. Nguy cơ cao hơn ở những người hút thuốc có ít nhất một thức uống có cồn mỗi ngày.

Nguồn: cancer.net

Yếu Tố Nguy Cơ Ung Thư Dạ Dày

Ở Việt Nam Ung thư dạ dày đang là vấn đề y tế lớn trong nhân dân, đặc biệt là ở nam giới trên 40 tuổi. Ước tính hàng năm có khoảng 15000 – 20000 người bị Ung thư dạ dày, đứng thứ 2 sau ung thư phổi (ở nam); đứng thứ 3 sau ung thư vú và ung thư cổ tử cung (ở nữ)

Ung thư dạ dày là bệnh khá phổ biến ở Việt Nam và trên thế giới. Theo Hiệp hội Ung thư quốc tế (UICC), mỗi năm trên thế giới có trên bảy triệu ung thư mới được phát hiện, trong đó khoảng 30% là Ung thư dạ dày. Riêng đối với ung thư tiêu hoá thì Ung thư dạ dày là loại gặp nhiều nhất.

Ở Việt Nam đang là vấn đề y tế lớn trong nhân dân, đặc biệt là ở nam giới trên 40 tuổi. Ước tính hàng năm có khoảng 15000 – 20000 người bị Ung thư dạ dày vẫn được coi là bệnh lý ác tính tiến triển và tiên lượng nặng nề, tỉ lệ tử vong cao. Cho đến nay nguyên nhân Ung thư dạ dày vẫn chưa rõ ràng, người ta chỉ nói đến các yếu tố nguy cơ.

Bình thường 6% thanh niên và trung niên, 20 – 30% người già có tình trạng giảm acid chlorhydric sinh lý. Trong trường hợp Ung thư dạ dày thì acid chlorhydric có thể giảm hoặc không có. Trước một ổ loét dạ dày có dịch vị vô toan cần nghĩ đến tính chất ác tính hoặc diễn biến ác tính của ổ loét.

Trong cộng đồng có nguy cơ cao quá trình này thường bắt đầu từ năm thứ 20 đến 30 của tuổi đời. Qua thời gian viêm teo niêm mạc sẽ phát triển lan rộng trong dạ dày. Cho đến 60 – 70 tuổi kết quả là những tế bào tiết acid giảm đi dẫn tới sự thay đổi pH tạo điều kiện cho vi khuẩn cùng với các yếu tố khác dẫn đến Ung thư dạ dày.

3. Vai trò của Helicobacter Pylori trong ung thư dạ dày

Marshall và Warren lần đầu tiên phân lập trực khuẩn HP vào năm 1982, kể từ đó có rất nhiều nghiên cứu về vai trò của nó trong bệnh lý dạ dày, nhất là bệnh lý loét và bệnh lý ung thư dạ dày.Parsonet ( 1991 ) theo dõi những người mắc ung thư dạ dày và người bình thường thì thấy rằng tỷ lệ nhiễm HP ở bệnh nhân ung thư dạ dày là 84% còn ở nhóm chứng là 64%.Blaser ( 1995 ) thấy rằng, vai trò của HP trong ung thư dạ dày rõ ràng hơn ở những người mang HP có chuỗi Cag A. Tại Việt Nam, một nghiên cứu của Tạ Long và cs tiến hành ở 104 bệnh nhân ung thư dạ dày cho thấy có đến 77,1% bệnh nhân nhiễm HP theo chẩn đoán mô bệnh học và hầu hết trong số này đều mang chuỗi Cag A.

4. Một số yếu tố khác với ung thư dạ dày

Tính chất gia đình: ung thư dạ dày có tính chất gia đình chiếm khoảng 1 – 15% các trường hợp ung thư. Yatsuya (2001) nghiên cứu yếu tố gia đình của bệnh thì thấy rằng những gia đình có từ hai thành viên trở lên mắc ung thư dạ dày thì có nguy cơ mắc bệnh rất cao cho cả hai giới và nguy cơ tử vong do ung thư dạ dày cũng cao hơn so với các bệnh nhân ung thư dạ dày không có tiền sử gia đình.

Bệnh thiếu máu ác tính, bệnh ung thư đại trực tràng di truyền không polyp, dị sản ruột.. là những yếu tố nguy cơ của ung thư dạ dày.

Các yếu tố khác như điều kiện kinh tế khó khăn, tiếp xúc với phóng xạ, công nhân mỏ than, công nhân cao su… là những điều kiện thuận lợi cho ung thư dạ dày phát triển.

Như vậy cách tốt nhất để phòng tránh bệnh ung thư dạ dày là có một chế độ ăn hợp lý, nhiều rau xanh và hoa quả tươi, hạn chế thực phẩm muối hay hun khói, điều trị triệt để các bệnh lý dạ dày khác; với những người thuộc nhóm nguy cơ cao, có tính chất gia đình nên thường xuyên nội soi dạ dày 6tháng một lần để kiểm tra, kịp thời phát hiện sớm tổn thương, và cần có ý thức hơn trong việc bảo vệ môi trường sống để chúng ta có cuộc sống thật sự khoẻ mạnh.