Yếu Tố Nguy Cơ Của Ung Thư Buồng Trứng / Top 9 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Sept.edu.vn

Các Yếu Tố Nguy Cơ Của Ung Thư Buồng Trứng

Các gen BRCA1 và BRCA2 thấy trong gia đình nhiều người bị ung thư vú. Phụ nữ mang đột biến các gen này cũng tăng nguy cơ ung thư buồng chứng.

Tiền sử gia đình: Những người thân có quan hệ gia đình cấp I (mẹ, con gái, chị hoặc em gái) với người phụ nữ bị ung thư buồng trứng có nguy cơ bị bệnh cao hơn. Khả năng mắc bệnh đặc biệt cao nếu có từ hai người thân cấp I trở lên bị mắc căn bệnh này. Nguy cơ mắc bệnh có phần ít hơn, nhưng vẫn cao hơn mức trung bình, nếu những người thân khác (bà, cô, chị em họ) mắc ung thư buồng trứng. Tiền sử gia đình có ung thư vú hoặc ung thư đại tràng cũng gắn với tăng nguy cơ ung thư buồng trứng.

Độ tuổi: Nguy cơ mắc ung thư buồng trứng tăng lên khi người phụ nữ già đi. Hầu hết các trường hợp ung thư buồng trứng xuất hiện ở những phụ nữ trên 50 tuổi, nguy cơ mắc bệnh cao nhất là ở những phụ nữ trên 60 tuổi.

Sinh con: Những phụ nữ chưa bao giờ sinh con có khả năng mắc bệnh nhiều hơn những phụ nữ đã sinh con. Thực tế cho thấy phụ nữ càng có nhiều con thì nguy cơ mắc bệnh ung thư buồng trứng càng ít.

Tiền sử cá nhân: Phụ nữ đã bị ung thư vú hoặc đại tràng có nguy cơ mắc ung thư buồng trứng cao hơn những phụ nữ không bị ung thư vú hay ung thư đại tràng.

Thuốc kích thích sinh sản: Thuốc kích thích rụng trứng có thể làm tăng nhẹ nguy cơ mắc ung thư buồng trứng. Các nhà nghiên cứu đang xem xét mối quan hệ có thể này.

Bột tan: Một số nghiên cứu chỉ ra rẳng những phụ nữ sử dụng bột tan (phấn) ở vùng sinh dục trong nhiều năm có thể có nguy cơ mắc bệnh cao hơn.

Điều trị hoóc-môn thay thế: Một số bằng chứng cho thấy phụ nữ sử dụng hoóc-môn sau thời kỳ mãn kinh có nguy cơ mắc ung thư buồng trứng tăng nhẹ.

Khi chúng ta biết được nhiều hơn về các nguyên nhân sinh ung thư buồng trứng thì chúng ta cũng biết làm thế nào để làm giảm khả năng mắc bệnh này. Một số nghiên cứu cho thấy cho con bú và dùng thuốc tránh thai có thể làm giảm nguy cơ mắc ung thư buồng trứng. Các biện pháp này làm giảm số lần phóng noãn, và các nghiên cứu cho rằng giảm số lần phóng noãn có thể làm giảm nguy cơ mắc ung thư buồng trứng.

Những phụ nữ đã được phẫu thuật tránh thai như thắt vòi trứng hoặc cắt tử cung sẽ có ít nguy cơ mắc ung thư buồng trứng. Thêm vào đó, 1 số nghiên cứu cho thấy giảm lượng mỡ trong khẩu phần ăn có thể sẽ là giảm nguy cơ mắc ung thư buồng trứng.

Điều đáng lưu ý là có 1 hay nhiều trong số các yếu tố nguy cơ nêu trên không có nghĩa là chắc chắn người phụ nữ đó sẽ bị ung thư buồng trứng, nhưng khả năng mắc phải sẽ cao hơn bình thường. Những chị em quan tâm đến bệnh có thể nói chuyện với các thầy thuốc chuyên khoa như bác sỹ phụ khoa, bác sỹ phụ khoa ung thư hoặc bác sỹ nội khoa ung thư. Bác sỹ có thể gợi ý các cách làm giảm khả năng mắc bệnh và có thể đưa ra 1 kế hoạch, 1 lịch trình kiểm tra sức khoẻ cụ thể.

Những Yếu Tố Tiềm Ẩn Nguy Cơ Gây Ung Thư Buồng Trứng

Những phụ nữ bị ung thư buồng trứng do bị thừa hưởng gien đột biến hiện nay có xu hướng tốt hơn về tiên lượng so với những bệnh nhân không có tiền sử gia đình bị ung thư buồng trứng vì những người này luôn luôn hàng năm đi khám sàng lọc để phát hiện sớm sự bất thường và giải quyết kịp thời khi ung thư vú còn ở giai đoạn rất sớm.

Ung thư vú:

Nếu bạn bị ung thư vú, bạn cũng có nguy cơ cao bị ung thư buồng trứng. Có một số lý do với nguy cơ này. Một số nguy cơ sinh sản đối với ung thư buồng trứng cũng là tăng nguy cơ ung thư vú. Nếu bạn có tiền sử trong gia đình có người bị ung thư vú, bạn cũng có thể thừa hưởng đột biến gien BRCA1 hoặc BRCA2.

Hầu hết các ung thư buồng trứng phát triển sau thời kỳ mãn kinh. Một người phụ nữ được xem là mãn kinh là phải sau ít nhất một năm không thấy kinh trở lại. Nguy cơ ung thư sẽ tăng lên khi bạn từ 70 trở lên và 50% số bệnh nhân bị ung thư buồng trứng gặp ở tuổi trên 63. Mặc dù hầu hết các trường hợp bị ung thư buồng trứng được chẩn đoán ở những phụ nữ cao tuổi nhưng bệnh vẫn có thể gặp ở những phụ nữ trẻ tuổi.

Tình trạng mang thai:

Những phụ nữ có ít nhất một lần mang thai có nguy cơ ung thư buồng trứng thấp hơn những phụ nữ không mang thai. Tương tự, những phụ nữ có ít nhất một lần mang thai có nguy cơ ung thư buồng trứng thấp hơn những phụ nữ không mang thai. Tương tự, những người sử dụng thuốc tránh thai uống có thể phòng được ung thư buồng trứng.

Tiền sử sinh sản:

U nang buồng trứng:

Nang buồng trứng là một bộ phận bình thường của sự rụng trứng ở những phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ. Tuy nhiên, các nang được hình thành sau thời kỳ mãn kinh có nguy cơ cao bị ung thư buồng trứng. Những nang ung thư thường có kích thước tăng nhanh và tăng cùng với tăng tuổi đời.

Theo Healthplus.vn

Các Yếu Tố Nguy Cơ Của Ung Thư Phổi

Một yếu tố nguy cơ là bất kỳ tác nhân nào ảnh hưởng đến khả năng mắc một bệnh nào đó, ung thư chẳng hạn. Các loại ung thư khác nhau có yếu tố nguy cơ khác nhau. Một số yếu tố nguy cơ, ví dụ như hút thuốc, có thể thay đổi được. Những yếu tố khác, như tuổi hay tiền sử gia đình có người mắc bệnh, là không thay đổi được.

Tuy nhiên, có một hay thậm chí là nhiều yếu tố nguy cơ không có nghĩa là bạn sẽ chắc chắn mắc bệnh. Và một số người mắc bệnh trong khi có ít hoặc không có yếu tố nguy cơ đã biết nào.

Sở hữu nhiều yếu tố nguy cơ cùng lúc làm tăng khả năng mắc ung thư phổi.

Khói thuốc lá được biết là có thành phần hơn 7.000 chất hóa học, và với một phần nhiều trong số đó là những chất độc. Có Ít nhất 70 chất được biết là tác nhân gây ra ung thư ở người hoặc động vật.

Người hút thuốc lá có nhiều khả năng bị ung thư phổi hoặc tử vong do ung thư phổi gấp 15-30 lần so với những người không hút thuốc. Thậm chí, hút một vài điếu thuốc một ngày hoặc hút không thường xuyên cũng làm gia tăng nguy cơ mắc ung thư phổi.

Nguy cơ mắc ung thư phổi bị ảnh hưởng bởi việc một người hút thuốc lá trong bao lâu, tuổi của họ khi họ bắt đầu hút thuốc và số điếu thuốc hút mỗi ngày. Số năm hút thuốc và số lượng thuốc hút trong ngày càng nhiều baonhiêu thì nguy cơ càng tăng lên bấy nhiêu.

Những người đã bỏ hút thuốc lá có nguy cơ ung thư phổi thấp hơn những người vẫn tiếp tục hút. Nhưng nguy cơ cao hơn so những người không bao giờ hút thuốc. Bỏ hút thuốc ở mọi lứa tuổi đều có thể làm giảm nguy cơ ung thư phổi.

Các loại sản phẩm thuốc lá khác như thuốc lá ít nicotine, thuốc tẩu, xì gà, thuốc lá thảo dược, shisha và thuốc lá nhai cũng có thể gây ung thư và không được coi là an toàn.

2) Hút thuốc lá thụ động

Dù bạn không hút thuốc lá nhưng ngửi khói thuốc lá từ người hút thuốc thở ra và khói bốc lên từ một điếu thuốc, tẩu thuốc hoặc một điếu xì-gà đang cháy thì bạn được xem là người “hút thuốc lá thụ động”.

Khi một người hít thở không khí có khói thuốc lá, nó cũng giống như người đó đang hút thuốc lá. Tại Hoa Kỳ, 2 trong số 5 người lớn không hút thuốc và một nửa số trẻ em có tiếp xúc với khói thuốc lá và đã trở thành “người hút thuốc lá thu động”.

Hút thuốc lá thụ động cũng làm tăng đáng kể nguy cơ mắc bệnh ung thư phổi, khoảng 7.300 người không bao giờ hút thuốc chết vì bệnh ung thư phổi do hút thuốc lá thụ động mỗi năm.

3) Radon

Tiếp xúc với radon làm tăng nguy cơ ung thư phổi. Nguy cơ mắc ung thư phổi phụ thuộc vào lượng radon một người tiếp xúc, thời gian họ được tiếp xúc.

Radon là một chất khí tự nhiên mà bạn không thể ngửi , nếm hay nhìn thấy. Radon đến từ sự phân hủy tự nhiên của uradium hoặc kim loại phóng xạ trong đá , đất và nước ngầm. Ở ngoài trời, khí radon được pha loãng bởi không khí trong lành, nên không phải là một mối quan tâm đáng kể. Nhưng Radon có thể chui vào nhà hoặc các tòa nhà qua những khe hở ở tầng hầm hoặc những tầng dơ bẩn. Khí Radon có thể đạt những mức nguy hiểm ở những căn nhà hoặc tòa nhà kín và không được thông thoáng. Gần như cứ một trong 15 ngôi nhà ở Mỹ được cho là có nồng độ radon cao.

Radon là nguyên nhân hàng đầu của bệnh ung thư phổi ở người không hút thuốc và nguyên nhân thứ hai dẫn đến ung thư phổi ở người hút thuốc. Theo Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ (EPA), radon gây ra khoảng 20.000 trường hợp ung thư phổi mỗi năm, là nguyên nhân thứ hai dẫn đến ung thư phổi.

4) Các chất khác

Ví dụ về các chất tìm thấy ở một số nơi làm việc làm tăng nguy cơ ung thư phổi bao gồm:

– Amiăng là nhóm khoáng chất có trong tự nhiên . Amiăng đã được sử dụng làm vật liệu xây dựng và trong nhiều ngành công nghiệp khác nữa . Hít thở không khí có chứ amiăng làm tăng nguy cơ ung thư phổi. Những người làm việc với amiăng (ví dụ như trong các hầm mỏ, nhà máy, nhà máy dệt, nơi cách nhiệt được sử dụng, và nhà máy đóng tàu) làm tăng nhiều lần khả năng mắc ung thư phổi. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự kết hợp của việc hút thuốc và tiếp xúc với amiăng là đặc biệt nguy hiểm. Người vừa tiếp xúc với amiăng vừa hút thuốc có nguy cơ rất cao mắc bệnh ung thư phổi.

– Thạch tín: nước uống có lượng arsenic cao làm tăng nguy cơ phát triển bệnh ung thư phổi. Nguy cơ tăng thêm nữa ở những người hút thuốc.

5) Nguồn không khí bị ô nhiễm

Có bằng chứng mạnh mẽ rằng việc tiếp xúc với nguồn không khí ô nhiễm trong thời gian dài sẽ gây ra ung thư phổi. Nguy cơ ung thư phổi gia tăng do tiếp xúc nhiều với không khí ô nhiễm. Các chất ô nhiễm trong không khí thay đổi từ nơi này đến nơi khác tùy thuộc vào nguồn khí thải trong khu vực và nguồn khí thải di chuyển đến từ nhiều khu vực khác .

Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng các thành phần riêng lẻ trông không khí bị ô nhiễm có khả năng gây ra ung thư, bao gồm: khí thải động cơ diesel, benzen , các hạt vật chất và một số hydrocarbon thơm đa vòng (PAHs ) . Nguy cơ này là ít hơn so với nguy cơ gây ra bởi hút thuốc, nhưng một số nhà nghiên cứu ước tính rằng trên toàn thế giới có khoảng 5% số ca tử vong do ung thư phổi có thể là do ô nhiễm không khí ngoài trời.

6) Cá nhân hoặc gia đình có người mắc ung thư phổi

Nguy cơ ung thư phổi của 1 người sẽ cao hơn nếu cha mẹ, anh chị em của họ bị ung thư phổi. Những người đã bị ung thư phổi có tăng nguy cơ phát triển bệnh ung thư phổi lần hai .

Anh chị em, con cái hoặc cha mẹ của những người đã bị ung thư phổi có thể có nguy cơ cao mắc ung thư phổi. Nguy cơ tăng lên trong số người thân trong gia đình có thể là do một số yếu tố, chẳng hạn như sự ảnh hưởng về hành vi của những thành viên trong gia đình với nhau (như hút thuốc) hoặc cùng chung sống trong môi trường có chất sinh ung thư (như radon, đốt than đá …).

Các nghiên cứu khác còn chỉ ra rằng nguy cơ ung thư phổi trong một gia đình sẽ gia tăng nếu một thành viên trong gia đình phát triển bệnh ở tuổi còn trẻ.

7) Người có bệnh phổi từ trước

Những người đã có bệnh nền ở phổi trước đây hoặc tình trạng xơ phổi sẽ tăng nguy cơ ung thư phổi. Ví dụ:

– Bệnh lao (TB) – một bệnh nhiễm trùng phổi lây lan do hít phải vi khuẩn lao.

– Bệnh tắc nghẽn mãn tính (COPD) – một căn bệnh lâu dài (bao gồm viêm phế quản mạn tính và khí phế thũng) gây hại cho phổi và thường là do hút thuốc lá

– Viêm phổi do Chlamydophila pneumoniae

8) Tiếp xúc với bức xạ

Nguy cơ ung thư phổi tăng lên đối với những người đã từng tiếp xúc trước với bức xạ ion hóa.

Những người đã được điều trị bằng xạ trị vùng ngực để điều trị các bệnh ung thư như: u lympho Hodgkin, ung thư vú có nguy cơ cao đối với bệnh ung thư phổi. Nguy cơ tăng thêm nữa ở những người hút thuốc.

Ở Nhật Bản, những người dân đã từng tiếp xúc với bức xạ ion hóa trong các vụ nổ bom nguyên tử có nguy cơ rất cao mắc phải ung thư phổi.

Chịu trách nhiêm thông tin: Huỳnh Ngọc Khánh An

Reviewer: Dr. Huynh Wynn Tran

Lần cuối xem xét Y học: 23/6/2016

Lần cuối chỉnh sửa: 23/6/2016

Nguồn Tham Khảo:

http://www.cancer.ca/en/cancer-information/cancer-type/lung/risks/?region=on

http://www.cancer.org/cancer/lungcancer-non-smallcell/moreinformation/lungcancerpreventionandearlydetection/lung-cancer-prevention-and-early-detection-risk-factors

http://www.cdc.gov/cancer/lung/basic_info/risk_factors.htm

‘;

Các Yếu Tố Nguy Cơ Của Bệnh Ung Thư

Các nghiên cứu khoa học đã chỉ ra rằng: một số yếu tố được coi là tác nhân gây bệnh hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh gọi là yếu tố nguy cơ của bệnh. Khi một người có yếu tố nguy cơ này, không có nghĩa là chắc chắn sẽ bị bệnh. Phần lớn người có yếu tố nguy cơ không bị mắc căn bệnh này. Tuy nhiên, nếu càng có nhiều yếu tố nguy cơ, số lần và thời gian tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ này càng nhiều thì khả năng bị bệnh càng cao. Vì vậy, chúng ta cần biết đến các yếu tố nguy cơ đó để phòng tránh tiếp xúc, hạn chế tối đa nguy cơ bị bệnh. Các yếu tố nguy cơ của bệnh ung thư được chia làm hai nhóm chính, gồm:

– Các yếu tố có thể thay đổi được: Thuốc lá, chế độ ăn uống, lạm dụng rượu bia, đẻ nhiều và tình dục không an toàn, các hóa chất độc trong môi trường, tia phóng xạ và tia tia cực tím trong ánh nắng mặt trời, một số bệnh nhiễm trùng, ít vận động thể lực…

– Các yếu tố không thay đổi được: Tuổi, giới, di truyền, chủng tộc…

1. Các yếu tố có thể thay đổi được:

Các nhà khoa học chia các yếu tố có thể thay đổi được này thành 3 nhóm chính sau:

Nhóm các tác nhân hóa học:

– Thuốc lá

Hút thuốc lá được kể đến hàng đầu, đây là nguyên nhân của 30% trong tổng số các loại ung thư ở người, bao gồm ung thư phổi, thanh quản, thực quản, khoang miệng, bàng quang, tụy, dạ dày. Trong khói thuốc không chỉ có chất nicotine ảnh hưởng đến hệ tim mạch mà còn có trên 40 loại hóa chất khác nhau gây ung thư. Hút thuốc ở người tuổi càng trẻ, thời gian hút càng dài, số lượng hút trong một ngày càng nhiều thì càng có nguy cơ cao. Ở Việt Nam, hút thuốc lào, ăn trầu thuốc cũng là yếu tố nguy cơ cao gây ung thư phổi và ung thư khoang miệng. Nếu người hút thuốc có kèm theo nghiện rượu thì nguy cơ mắc ung thư càng cao hơn nữa. Người đang hút thuốc mà bỏ hút thì nguy cơ gây ung thư sẽ giảm dần theo thời gian. Sau 5 năm ngừng hút thì nguy cơ bị ung thư phổi giảm 50%, sau 10 năm ngừng hút thì nguy cơ còn không đáng kể, gần như người không hút.

– Chế độ ăn uống không hợp lý và ô nhiễm thực phẩm

Chế độ ăn nhiều chất mỡ động vật, ít chất xơ làm tăng nguy cơ mắc ung thư đại – trực tràng và ung thư vú. Ngược lại, chế độ ăn ít chất béo, nhiều rau, hoa quả và các ngũ cốc dạng nguyên hạt, có thể làm giảm nguy cơ mắc các loại ung thư.

Các chất bảo quản thực phẩm, các chất nhuộm màu thực phẩm có nguồn gốc hóa học, các chất trung gian chuyển hóa và sinh ra từ thực phẩm bị nấm mốc, lên men là nguyên nhân gây ra nhiều loại ung thư đường tiêu hóa như ung thư dạ dày, ung thư gan, ung thư đại tràng… Ước tính yếu tố này gây ra đến 35% trong tổng số các loại ung thư.

Thịt hun khói, cá muối, các loại mắm và dưa muối, cà muối, nhất là dưa khú có nhiều muối nitrat, nitrit và nitrosamine và các chất gây ung thư thực quản và dạ dày. Gạo và lạc là 2 loại thực phẩm dễ bị nấm mốc Aspergillus Flavus xâm nhiễm và tiết ra một loại chất độc là Aflatoxin, chất này gây ra ung thư gan nguyên phát.

– Ô nhiễm môi trường

Ở nước ta, thuốc trừ sâu diệt cỏ dùng phổ biến trong nông nghiệp là yếu tố nguy cơ gây ung thư vú và một số loại ung thư khác. Bên cạnh đó, hậu quả của chất độc màu da cam (dioxin) do Mỹ rải xuống trong chiến tranh đã để lại hậu quả nặng nề không những gây nên các dị tật bẩm sinh mà còn là yếu tố nguy cơ tiềm ẩn gây nhiều bệnh ung thư. Các nhà khoa học Mỹ đã nghiên cứu và kết luận chất dioxin làm tăng tỷ lệ ung thư gan, máu, hạch, phần mềm ở các cựu chiến binh Mỹ đã tham gia tại những vùng rải chất độc hóa học trong chiến tranh ở miền Nam – Việt Nam và Chính phủ Mỹ đã phải có chính sách bồi thường cho các đối tượng này.

Một tác nhân gây ung thư nữa là các hóa chất sử dụng trong công nghiệp. Ước tính nhóm nguyên nhân này gây ra khoảng 2-8% trong tổng số các loại ung thư. Các loại ung thư nghề nghiệp do tiếp xúc trực tiếp trong môi trường lao động với da, hệ thống hô hấp và tiết niệu. Ví dụ: ung thư bàng quang ở những người thợ nhuộm có tiếp xúc với chất aniline trong phẩm nhuộm, ung thư phổi ở những công nhân khai thác mỏ amiăng, làm việc ở nơi có tiếp xúc với thạch tín, ung thư máu ở những người có tiếp xúc với chất benzene, ung thư thanh quản ở những người có tiếp xúc với khí mù tạc…

Nhóm các tác nhân vật lý:

– Bức xạ ion hóa

Bức xạ ion hóa như tia Rơnghen, phát ra từ máy chiếu chụp X-quang, các chất phóng xạ dùng trong y học và một số ngành khoa học, có khả năng gây tổn thương gen và sự phát triển tế bào. Loại nguyên nhân này chiếm 3% trong số các trường hợp ung thư. Ví dụ như ung thư phổi ở công nhân khai thác mỏ uranium, ung thư da và ung thư máu gặp ở một số người làm nghề có tiếp xúc nhiều với tia X. Sau vụ Mỹ thả bom nguyên tử tại thành phố Hi-rôsi- ma và Na-ga-sa-ki của Nhật Bản, tỷ lệ mắc bệnh bạch cầu tăng cao ở những người còn sống sót. Cũng từ sau vụ nổ nhà máy điện nguyên tử Tréc-nô-bưn ở Liên Xô (cũ), đã ghi nhận được hơn 200 trẻ em mắc ung thư tuyến giáp và ung thư máu.

Tác động của tia phóng xạ gây ung thư ở người phụ thuộc vào một số đặc điểm của tiếp xúc như: tuổi: tuổi càng nhỏ (nhất là khi còn là bào thai) thì mối nguy hiểm càng tăng cao; liều lượng: tiếp xúc với càng nhiều chất phóng xạ thì nguy cơ mắc ung thư càng cao; cơ quan bị tiếp xúc: các cơ quan nhạy cảm với tia phóng xạ là tuyến giáp, tủy xương.

– Tia cực tím

Tia cực tím có trong ánh sáng mặt trời cũng là tác nhân gây ung thư da. Những người thường xuyên phải làm việc ngoài trời thiếu phương tiện che nắng có nguy cơ mắc ung thư da cao hơn ở những vùng da hở, nhiều nhất là da vùng đầu, mặt. Nguy cơ này càng cao hơn ở những những người da trắng sống trong môi trường nhiệt đới (ví dụ ở nước Úc). Vì vậy, không nên tắm nắng dưới nắng hè gay gắt có nhiều tia cực tím và tắm nắng quá nhiều.

– Nhiễm Vi-rút, vi khuẩn

Một số vi- rút, vi khuẩn có thể gây ung thư:

Vi-rút viêm gan B: là nguyên nhân gây ung thư gan nguyên phát. Sau khi thâm nhập vào cơ thể nó gây viêm gan cấp, có trường hợp bệnh nhẹ thoáng qua, tiếp theo là thời kỳ viêm gan mạn tính tiến triển kéo dài không có triệu chứng, dẫn đến xơ gan và gan. Việc phát hiện ra vi-rút viêm gan B là nguyên nhân quan trọng gây ung thư gan đã mở ra hướng phòng bệnh hữu hiệu bằng cách tiêm chủng phòng bệnh viêm gan B.

Vi-rút gây u nhú ở người (Papiloma Human Virus- HPV): là nguyên nhân gây đến 70% ung thư tử cung ở phụ nữ. Vi-rút này lây truyền qua đường tình dục. Bệnh có tỷ lệ mắc cao ở những phụ nữ có quan hệ tình dục sớm, đẻ nhiều hoặc có nhiều bạn tình.

Vi khuẩn Helicobacter Pylory (HP): là loại vi khuẩn có vai trò quan trọng trong gây viêm loét dạ dày-tá tràng và ung thư dạ dày. Đây cũng là một loại UT khá phổ biến ở Việt Nam và một số nước châu Á.

Như vây, ung thư không phải do một nguyên nhân gây ra mà có rất nhiều nguyên nhân tùy theo mỗi loại ung thư, trong số đó, hút thuốc và chế độ dinh dưỡng không hợp lý là 2 nhóm nguyên nhân quan trọng nhất, gây nhiều loại ung thư nhất. Hạn chế tiếp xúc với các tác nhân gây ung thư là biện pháp phòng bệnh ung thư hiệu quả và kinh tế nhất trong chiến lược phòng chống ung thư ở mọi quốc gia.

2. Các yếu tố không thay đổi được

– Tuổi:

Nhìn chung đa phần ung thư hay gặp ở người lớn tuổi. Rất nhiều loại ung thư có tỷ lệ mắc tăng nhanh sau lứa tuổi 40 và đỉnh điểm là sau 60. Lý do là càng nhiều tuổi, thời gian tiếp xúc, tích lũy các yếu tố nguy cơ càng nhiều. Càng nhiều tuổi, tế bào sinh sôi nhiều lần càng dễ có sai sót gen khi phân chia. Càng nhiều tuổi, sức đề kháng của cơ thể chống lại bệnh tật càng giảm, ung thư càng dễ phát sinh.

– Giới:

Nam giới hay mắc ung thư tuyến tiền liệt, ung thư dương vật, tinh hoàn; nữ hay mắc ung thư vú, cổ tử cung, buồng trứng, nhau thai, âm hộ, đó là những bộ phận sinh dục đặc trưng mỗi giới. Hoạt động nội tiết của mỗi giới cũng ảnh hưởng đến mắc các bệnh ung thư khác nhau.

– Gen di truyền:

Con người có đến hơn 40 gen sinh ung thư và các gen ức chế ung thư. Có một số gen có thể di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Khi các gen đó bị tổn thương bất thường (đột biến) người đó dễ mắc một loại ung thư nào đó

Có thể phòng được nhiều loại ung thư

Từ việc hiểu biết các nguyên nhân gây ung thư, trong đó chủ yếu là do các nguyên nhân từ bên ngoài tác động vào cơ thể con người và có thể thay đổi được, khoa học đã chứng minh nếu tránh hoặc giảm thiểu tiếp xúc với các tác nhân sinh ung thư trên, có thể phòng được nhiều loại ung thư. Ví dụ:

– Không hút thuốc lá, thuốc lào và hít phải khói thuốc, để phòng ung thư phổi, nhiều loại ung thư đường hô hấp, tiêu hoá không chỉ cho bản thân người hút mà cho nhiều người xung quanh.

– Dinh dưỡng hợp lý, ăn nhiều rau xanh, hoa quả tươi, hạn chế ăn mỡ động vật, đồ ăn rán (chiên) quá cháy, không ăn thực phẩm mốc, bị ô nhiễm thuốc trừ sâu, thuốc tăng trọng, phẩm màu, hoá chất bảo quản… để phòng ung thư đường tiêu hoá, ung thư vú, tuyến tiền liệt…

– Hạn chế sử dụng rượu bia phòng ung thư gan.

– Sinh đẻ kế hoạch và tình dục an toàn phòng ung thư cổ tử cung.

– Tiêm vắc xin phòng viêm gan B phòng ung thư gan, vắc xin HPV phòng ung thư cổ tử cung.

– Tránh tia nắng gắt khi lao động ngoài trời, khi đi tắm biển phòng ung thư da.

– Thực hiện tốt các biện pháp an toàn lao động, phòng bệnh ung thư nghề nghiệp do môi trường độc hại như: an toàn phóng xạ, bụi phổi amiang, ô nhiễm hoá chất… phòng nhiều loại ung thư.

– Luyện tập thể dục thể thao, tăng cường sức đề kháng, tăng cường hệ miễn dịch để cơ thể có khả năng chủ động phòng chống ung thư và nhiều bệnh tật khác.