Yếu Tố Gây Ung Thư Vú / Top 5 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Sept.edu.vn

Các Yếu Tố Nguy Cơ Gây Ung Thư Vú

Yếu tố nguy cơ là yếu tố ảnh hưởng tới khả năng bị bệnh. Các loại ung thư khác nhau có các yếu tố nguy cơ khác nhau. Ví dụ, da tiếp xúc với ánh sáng mặt trời cường độ mạnh là một yếu tố nguy cơ gây ung thư da. Hút thuốc là yếu tố nguy cơ gây ung thư phổi, miệng, thanh quản, bàng quang, thận và một số cơ quan khác.

Tuy nhiên yếu tố nguy cơ không cho biết tất cả. Có một hoặc thậm chí một vài yếu tố nguy cơ không có nghĩa rằng bạn sẽ mắc bệnh. Phần lớn những phụ nữ có một hoặc một vài yếu tố nguy cơ gây ung thư vú không bao giờ mắc bệnh, trong khi nhiều phụ nữ mắc ung thư trong khi không có yếu tố nguy cơ nào (ngoài việc là một phụ nữ và đang già đi). Thậm chí khi một người phụ nữ có các nguy cơ mắc ung thư, cũng khó để biết rằng cần phải có bao nhiêu yếu tố để mắc bệnh.

1. Yếu tố nguy cơ không thể thay đổi

Giới tính nữ là yếu tố nguy cơ chính gây ung thư vú. Nam giới có thể mắc ung thư vú nhưng căn bệnh này phổ biến ở nữ hơn 100 lần so với nam. Điều này có thể do nam giới có ít hormon nữ (estrogen và progesteron) hơn trong khi các hormon này có thể thúc đẩy sự phát triển của tế bào ung thư vú.

Nguy cơ phát triển ung thư vú tăng lên theo độ tuổi. Khoảng 1/8 ca ung thư xâm lấn xảy ra ở phụ nữ dưới 45 tuổi trong khi 2/3 số ca ở phụ nữ trên 55 tuổi.

Khoảng 5-10% ca ung thư vú được cho là di truyền, có nghĩa là ung thư là kết quả trực tiếp từ các sai sót trong bộ gen (đột biến) di truyền từ bố hoặc mẹ.

ADN là một chất hóa học tồn tại trong mỗi tế bào của cơ thể, tạo nên bộ gen – mã hóa cho các chức năng của tế bào. Chúng ta thường trông giống với cha mẹ do cha mẹ là nguồn gen của chúng ta. Tuy vậy ADN không chỉ ảnh hưởng tới vẻ ngoài.

Một số gen quy định khi nào các tế bào sinh trưởng, nhân đôi thành các tế bào mới và chết đi. Gen làm tăng nhanh sự nhân đôi các tế bào được gọi là oncogen. Các gen làm chậm quá trình nhân đôi hoặc gây chết các tế bào vào thời gian thích hợp, được gọi là các gen ức chế khối u. Một số biến đổi (đột biến) trong ADN gây hoạt hóa các oncogen hoặc bất hoạt các gen ức chế khối u có thể biến tế bào tuyến vú bình thường trở thành tế bào ung thư.

Một số đột biến ADNdi truyền có thể tăng đột ngột nguy cơ phát triển ung thư và là nguyên nhân gây ra ung thư di truyền trong gia đình. Ví dụ, gen BRCA (BRCA1 và BRCA2) là các gen ức chế khối u. Đột biến ở một trong số các gen này có thể được di truyền từ bố mẹ. Khi một trong số các gen này bị đột biến, không còn yếu tố ức chế sự phát triển bất thường, ung thư có nguy cơ phát triển hơn.

Hiện nay, phụ nữ đã bắt đầu được hưởng lợi ích từ việc hiểu được cơ sở di truyền của ung thư vú. Xét nghiệm gen có thể xác định người có đột biến di truyền trên gen ức chế khối u BRCA1 hoặc BRCA2 (hoặc hiếm hơn là đột biến trên gen khác như PTEN hoặc TP53). Những người này có thể áp dụng các biện pháp để giảm thiểu nguy cơ phát triển của ung thư vú và theo dõi sự thay đổi ở tuyến vú một cách thận trọng để phát hiện ung thư ở giai đoạn sớm, có khả năng chữa trị cao hơn.

Xét nghiệm đột biến điểm mắc phải có thể giúp bác sĩ đánh giá chính xác hơn tình trạng ung thư vú. Ví dụ, xét nghiệm có thể xác định những người mắc ung thư vú có quá nhiều oncogen HER2, với những trường hợp này ung thư có xu hướng ác tính hơn. Đồng thời các thuốc được phát triển với đích tác dụng đặc biệt trên loại ung thư này và đã được chứng minh hiệu quả.

BRCA1 và BRCA2 : Nguyên nhân thường gặp nhất gây ung thư vú mang tính di truyền là đột biến di truyền trên gen BRCA1 và BRCA2. Ở các tế bào thường, các gen này giúp ngăn ngừa ung thư bằng cách tổng hợp các protein ngăn tế bào phát triển bất thường. Người mang bản sao đột biến của các gen này di truyền từ bố mẹ có nguy cơ cao mắc ung thư cao hơn trong suốt cuộc đời.

Mặc dù ở một số gia đình mang gen đột biến BRCA1, nguy cơ ung thư vú trong suốt cuộc đời khoảng 80%, trong khi trung bình nguy cơ này nằm trong khoảng 55 – 65%. Với gen BRCA2 đột biến, nguy cơ mắc bệnh thấp hơn, khoảng 45%.

Ở Mỹ, đột biến trên gen BRCA phổ biến ở người Do Thái có nguồn gốc Ashkenazi (Đông Âu) hơn các nhóm chủng tộc và dân tộc khác, tuy vậy điều này có thể xảy ra ở bất kỳ ai.

Biến đổi các gen khác : Các đột biến gen khác cũngcó thể dẫn tới ung thư vú di truyền. Các đột biến gen này hiếm hơn nhiều và thường không làm tăng nguy cơ ung thư vú nhiều như đột biến trên gen BRCA và không phải nguyên nhân thường gặp của ung thư vú di truyền.

Ở những người phụ nữ mà trong gia đình có người quan hệ huyết thống gần mắc bệnh, nguy cơ mắc bệnh sẽ cao hơn.

Nguy cơ mắc ung thư vú tăng khoảng 2 lần khi có quan hệ huyết thống trong phạm vi 1 thế hệ với người mắc bệnh (mẹ, chị hoặc con gái), tăng lên khoảng 3 lần khi có quan hệ huyết thống trong phạm vi 2 thế hệ với người mắc bệnh.

Ở những phụ nữ có cha hoặc anh trai bị ung thư vú, không xác định được chính xác nguy cơ mắc ung thư vú nhưng nguy cơ mắc bệnh ở những người này cũng cao hơn. Nói chung, dưới 15% phụ nữ mắc ung thư vú có thành viên trong gia đình mắc bệnh. Điều này có nghĩa là phần lớn (hơn 85%) phụ nữ mắc ung thư vú không có tiền sử gia đình mắc bệnh.

Nhữngphụ nữ mắc ung thư một bên vú có nguy cơ mắc ung thư mới ở bên vú còn lại hoặc phần khác của bên vú đó cao hơn 3-4 lần. Điều này khác với tái phát ung thư ban đầu.

Nhìn chung, phụ nữ da trắng thường mắc ung thư vú nhiều hơn phụ nữ Mỹ gốc phi, nhưng phụ nữ Mỹ gốc phi thường tử vong do ung thư vú nhiều hơn. Tuy nhiên, ở phụ nữ dưới 45 tuổi, ung thư vú phổ biến ở người Mỹ gốc phi hơn. Người châu Á, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, thổ dân châu Mỹ có nguy cơ mắc ung thư vú và tử vong thấp hơn.

Tuyến vú được tạo thành từ mô mỡ, mô xơ và mô tuyến. Một số người có mô tuyến vú đặc (quan sát trên phim chụp x-quang), tức là có nhiều mô tuyến và mô xơ, ít mô mỡ hơn. Người có tuyến vú đặc trên phim chụp x-quang có nguy cơ ung thư vú cao hơn 1,2 đến 2 lần so với người có mật độ vú trung bình. Tuy nhiên, mô vú đặc cũng khiến phim chụp kém chính xác hơn.

Một số yếu tố có thể ảnh hưởng tới mật độ vú, như tuổi, giai đoạn mãn kinh, một số thuốc (bao gồm liệu pháp hormon thay thế ở giai đoạn mãn kinh), mang thai và gen.

Người mang u tuyến vú lành tình có thể có nguy cơ ung thư vú cao hơn. Một số ảnh hưởng tới nguy cơ ung thư vú hơn những tình trạng còn lại. Bác sĩ thường chia u vú lành tình thành 3 nhóm chính, phụ thuộc vào sự ảnh hưởng của nó tới nguy cơ ung thư vú.

Thương tổn không tăng sinh : Các loại u vú lành tính này không đi kèm với sự tăng sinh mô tuyến vú. Các tình trạng này không ảnh hưởng tới nguy cơ ung thư vú, nếu có thì ảnh hưởng trong phạm vi rất nhỏ. Nhóm này bao gồm:

Xơ hóa và/hoặc nang đơn thuần (thường được gọi là bệnh xơ nang)

Mastitis (viêm vú) không phải một thương tổn, tuy nhiên đây là tình trạng có thể xảy ra mà không làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú.

Thương tổn có tăng sản (không thuộc thể không điển hình) : Các tình trạng này có sự tăng sinh quá mức ở ống dẫn sữa hoặc tiểu thùy ở mô tuyến vú, làm tăng nhẹ nguy cơ mắc ung thư vú ở phụ nữ (1,5-2 lần). Nhóm này bao gồm:

Thương tổn tăng sản không điển hình : Trong các trường hợp này, có sự tăng sinh của tế bào ở ống dẫn sữa hoặc tiểu thùy của mô tuyến vú, trong đó một số tế bào không còn ở trạng thái bình thường. Các tổn thương này ảnh hưởng lớn tới nguy cơ ung thư vú, làm tăng nguy cơ lên 3,5-5 lần. Các loại tổn thương này bao gồm:

Phụ nữ có tiền sử gia đình ung thư vú, đồng thời bị mắc chứng tăng sản hoặc tăng sản không điển hình có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn nhiều.

Trong LCIS, các tế bào giống tế bào ung thư phát triển trong tiểu thùy tuyến tiết sữa, tuy nhiên chúng không phát triển xuyên qua thành tiểu thùy. LCIS (còn được gọi là lobular neoplasia) thường được xếp vào nhóm ung thư vú không xâm lấn cùng với ung thư biểu mô ống dẫn sữa (DCIS – ductal carcinoma in situ) tại chỗ, tuy nhiên khác với DCIS ở chỗ nó không trở thành ung thư xâm lấn khi không điều trị.

Phụ nữ mắc tình trạng này có nguy cơ mắc ung thư xâm lấn gấp 7-11 lần ở cả 2 vú. Do đó, người mắc LCIS nên thường xuyên kiểm tra x-quang vú và thăm khám bác sĩ.

Nguy cơ mắc ung thư vú tăng nhẹ ở những phụ nữ có chu kỳ kinh nguyệt bắt đầu sớm (trước 12 tuổi) và/hoặc mãn kinh muộn (sau 55 tuổi). Mức độ tăng nguy cơ mắc bệnh có thể phụ thuộc vào thời gian phơi nhiễm với hormon estrogen và progesteron.

Nguy cơ mắc ung thư vú tăng đáng kể ở phụ nữ có tiền sử xạ trị ở vùng ngực để điều trị các loại ung thư khác (như lymphoma) khi còn nhỏ hoặc còn trẻ. Nguy cơ này thay đổi theo tuổi của bệnh nhân vào thời điểm xạ trị. Nếu đồng thời sử dụng hóa trị, buồng trứng có thể dừng sản xuất hormon trong một thời gian, điều này làm giảm nguy cơ mắc ung thư vú. Nguy cơ mắc ung thư vú do xạ trị cao nhất khi việc điều trị được thực hiện vào tuổi thiếu niên, khi tuyến vú đang phát triển. Xạ trị sau tuổi 40 dường như không làm tăng nguy cơ ung thư vú.

Từ những năm 1940 đến 1960, một số phụ nữ sử dụng thuốc diethylstilbestrol (DES) trong thời kỳ mang thai do thuốc này được cho là giảm nguy cơ xảy thai. Nguy cơ mắc ung thư vú ở những người này tăng nhẹ so với bình thường. Con của những người này cũng có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn.

2. Lối sống và nguy cơ ung thư vú

Nguy cơ mắc ung thư vú tăng nhẹ ở những phụ nữ không có con hoặc có con đầu lòng sau tuổi 30. Mang thai nhiều lần và mang thai khi còn trẻ làm giảm nguy cơ ung thư vú. Tuy vậy, ảnh hưởng của việc mang thai đối với các loại ung thư vú khác nhau thì khác nhau. Với một số thể ung thư vú , việc mang thai làm tăng nguy cơ ung thư.

Depot-medro xyprogesteron acetat (DMPA; Depo-Provera) là một progesteron dạng tiêm được sử dụng 3 tháng 1 lần để phòng tránh thai. Một vài nghiên cứu cho thấy ảnh hưởng của DMPA trên nguy cơ ung thư vú. Phụ nữ trong thời gian sử dụng DMPA có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn, tuy nhiên nguy cơ mắc ung thư dường như không tăng lên khi dừng sử dụng thuốc trên 5 năm.

Liệu pháp sử dụng estrogen (thường kết hợp với progesteron) được sử dùng từ nhiều năm này để giảm triệu chứng mãn kinh và ngăn ngừa loãng xương. Các nghiên cứu trước đây đề xuất rằng nó có thể có các lợi ích khác cho sức khỏe, tuy nhiên các lợi ích này không được tìm thấy gần đây qua các nghiên cứu được thiết kế tốt hơn. Liệu pháp này được gọi bằng nhiều tên như liệu pháp hormon sau mãn kinh (post-menopausal hormone therapy), liệu pháp hormon thay thế (hormone replacement therapy) và liệu pháp hormon mãn kinh (menopausal hormon therapy).

Có 2 loại liệu pháp hormon chính. Với người còn tử cung, bác sĩ thường kê đơn cả estrogen và progesteron (được gọi là liệu pháp hormon kết hợp). Progesteron rất cần thiết do estrogen đơn độc làm tăng nguy cơ ung thư tử cung. Với người không còn tử cung (người đã từng phẫu thuật cắt tử cung), có thể kê estrogen đơn độc. Liệu pháp này thường được gọi là liệu pháp thay thế estrogen hoặc liệu pháp estrogen.

Các nghiên cứu cho thấy sử dụng liệu pháp hormon kết hợp sau khi mãn kinh làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú. Nó cũng tăng nguy cơ tử vong do ung thư vú.

Sử dụng estrogen đơn độc saumãn kinh không làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú.

Một số nghiên cứu cho kết quả gợi ý rằng việc cho con bú làm giảm nhẹ nguy cơ mắc ung thư vú, đặc biệt nếu cho bú liên tục từ 1,5 đến 2 năm. Tuy nhiên, điều này rất khó để nghiên cứu, đặc biệt ở các quốc gia như Mỹ, nơi mà việc cho bú trong thời gian dài không phải là phổ biến.

Ảnh hưởng này có thể do việc cho con bú làm giảm số lượng chu kỳ kinh nguyệt trong cuộc đời của người phụ nữ (tương tự với việc bắt đầu chu kỳ kinh nguyệt muộn hoặc sớm).

Sử dụng rượu có mối liên hệ rõ ràng với việc tăng nguy cơ mắc ung thư vú. Nguy cơ tăng lên tỷ lệ với lượng rượu tiêu thụ. So sánh với người không uống rượu, người uống 1 cốc rượu tiêu chuẩn một ngày có nguy cơ tặng rất ít. Người uống từ 2 đến 5 cốc mỗi ngày có nguy cơ cao hơn 1,5 lần so với người không uống rượu. Uống nhiều rượu cũng làm tăng nguy cơ mắc một số loại ung thư khác.

Tuy nhiên, quan hệ giữa cân nặng và nguy cơ ung thư vú rất phức tạp. Ví dụ, nguy cơ ung thư tăng lên ở những phụ nữ tăng cân ở tuổi trưởng thành nhưng có thể không tăng ở những người quá cân khi còn nhỏ. Tương tự, quá nhiều mỡ ở vùng eo có thể ảnh hưởng tới nguy cơ ung thư vú nhiều hơn cùng lượng mỡ đó ở vùng hông và đùi. Các nhà nghiên cứu tin rằng các tế bào mô mỡ ở các vùng khác nhau của cơ thể có sự khác biệt, điều này có thể giải thích cho sự ảnh hưởng phức tạp trên.

Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy hoạt động thể lực dưới dạng các bài tập thể dục làm giảm nguy cơ ung thư vú. Câu hỏi chính là cường độ cần thiết là bao nhiêu. Trong một nghiên cứu từ Cơ quan sáng kiến về sức khỏe phụ nữ, đi bộ nhanh khoảng 1,25 đến 2,5 giờ trên tuần làm giảm nguy cơ ung thư khoảng 18%/người. Đi bộ 10 giờ/tuần giảm nguy cơ hơn một chút nữa.

Nhiều nghiên cứu đã tìm hiểu mối liên hệ giữa chế độ ăn và nguy cơ ung thư vú, nhưng đến nay các kết quả vẫn còn nhiều mâu thuẫn. Một số nghiên cứu cho thấy chế độ ăn có thể đóng một vai trò trong sự phát triển ung thư, trong khi các nghiên cứu khác lại không thấy bằng chứng rằng chế độ ăn ảnh hưởng tới nguy cơ ung thư vú. Ví dụ, một nghiên cứu thấy rằng phụ nữ ăn nhiều thịt đỏ hơn có nguy cơ ung thư vú cao hơn.

Các nghiên cứu cũng chú ý tới nồng độ vitamin, và cũng thu được kết quả không thống nhất. Một số nghiên cứu hiện nay thấy rằng ở phụ nữ có nồng độ cao một số chất dinh dưỡng, nguy cơ ung thư vú tăng lên. Đến nay, không có nghiên cứu nào cho thấy rằng sử dụng vitamin làm giảm nguy cơ ung thư vú. Điều này không có nghĩa chế độ ăn lành mạnh không có lợi ích gì. Một chế độ ăn ít béo, ít các loại thịt đỏ và thịt qua chế biến, nhiều rau và hoa quả có thể có các lợi ích khác với sức khỏe.

Nhiều nghiên cứu đã và đang được thực hiện để đánh giá ảnh hưởng của môi trường lên nguy cơ ung thư vú.

Các hợp chất trong môi trường có tính chất tương tự estrogen được đặc biệt quan tâm, ví dụ, các hợp chất trong một số loại nhựa, một số mỹ phẩm và sản phẩm chăm sóc cá nhân, thuốc trừ sâu (như DDE), và các polychlorinat biphenyl (PCB). Các chất này theo lý thuyết có thể ảnh hưởng tới nguy cơ ung thư vú.

Vấn đề này là mối quan tâm lớn của cộng đồng, nhưng ở thời điểm này các nghiên cứu không cho thấy mối liên hệ rõ ràng giữa nguy cơ ung thư vú và sự phơi nhiễm với các chất này. Đáng tiếc rằng khó thực hiện các nghiên cứu về loại ảnh hưởng này ở người. Cần có thêm nghiên cứu để xác định ảnh hưởng tới sức khỏe của các chất này và các chất tương tự.

Một trọng tâm nghiên cứu hiện nay là việc hút thuốc thụ động có tăng nguy cơ ung thư vú hay không. Cả khói thuốc khi hút thuốc trực tiếp hay gián tiếp đều chứa các chất hóa học gây ung thư vú ở loài gặm nhấm ở nồng độ cao. Các chất hóa học trong khói thuốc tới mô tuyến vú và bài tiết ra sữa.

Bằng chứng nghiên cứu về mối quan hệ nữa hút thuốc thụ động và nguy cơ ung thư vú ở người còn gây tranh cãi, ít nhất một phần nào đó do mối quan hệ này còn chưa rõ ràng. Có thể giải thích cho điều này là khói thuốc lá có thể ảnh hưởng khác nhau với nguy cơ ung thư vú trên người hút thuốc và người chỉ phơi nhiễm với khói thuốc.

Một báo cáo từ Phòng bảo vệ môi trường California năm 2005 kết luận rằng bằng chứng cho thấy chắc chắn có mối quan hệ nhân quả giữa hút thuốc thụ động và nguy cơ ung thư vú ở người trẻ, đặc biệt phụ nữ trước mãn kinh. Báo cáo của Hiệp hội bác sĩ phẫu thuật năm 2004 lại kết luận rằng không có bằng chứng chắc chắn về mối liên hệ này. Trong bất kỳ trường hợp nào, nguy cơ này đủ để có lý do tránh việc hút thuốc thụ động.

Một số nghiên cứu cho thấy rằng phụ nữ làm việc về đêm (như y tá ca đêm) có thể có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn. Gần đây, nhiều nghiên cứu hơn được tiến hành về vấn đề này. Một số nhà nghiên cứu nghĩ rằng ảnh hưởng này có thể do sự thay đổi nồng độ melatonin, một hormon được bài tiết thay đổi dựa theo sự phơi nhiễm của cơ thể với ánh sáng, tuy nhiên các hormon khác cũng đang được nghiên cứu.

4. Các yếu tố còn tranh cãi hoặc chưa được chứng minh

Tin đồn trên internet và e-mail cho rằng các chất hóa học chống đổ mồ hôi dưới cánh tay được hấp thụ qua da, vào hệ bạch huyết, gây độc cho quá trình phát triển của tuyến vú và cuối cùng dẫn tới ung thư vú.

Dựa trên các bằng chứng hiện nay (bao gồm kiến thức về cơ chế hoạt động của cơ thể), có rất ít lý do để tin rằng các chất chống đổ mồ hồi làm tăng nguy cơ ung thư vú.

Tin đồn qua internet và e-mail và ít nhất một quyển sách cho rằng áo ngực gây ung thư vú do gây tắc nghẽn dòng bạch huyết. Không có cơ sở khoa học hay lâm sàng cho khẳng định này, và một nghiên cứu gần đây gồm 1500 phụ nữ cho thấy không có mối liên hệ giữa việc sử dụng áo ngực với nguy cơ ung thư vú.

Một số nghiên cứu cho dữ liệu chắc chắn rằng cả phá thai và xảy thai đều không có ảnh hưởng tới nguy cơ ung thư vú.

Một số nghiên cứu cho thấy rằng việc cấy ghép vú không làm tăng nguy cơ ung thư vú, mặc dù đặt túi silicon có thể gây mô sẹo trong vú. Việc cấy ghép có thể gây khó khăn để quan sát mô vú trong phim chụp x-quang chuẩn của vú, nhưng khi sử dụng hình ảnh thêm (additional x-ray pictures) , được gọi là hình ảnh thay thế cấy ghép (implant displacement view) có thể thăm khám mô vú một cách đầy đủ.

Cấy ghép vú có thể gây lymphoma thể hiếm gọi là lymphoma thểtế bào lớn thoái biến. Biến thể lymphoma này hiếm khi được thấy ở mô vú quanh nơi cấy ghép. Tới nay, có rất ít ca đã biết cho thấy nguy cơ mắc thể lymphoma này cao hơn ở những phụ nữ cấy ghép ngực.

Sinh viên Dược 5, Nguyễn Thị Minh Trang, ĐH Dược Hà Nội (dịch) DS. Võ Thị Hà (hiệu đính) Nguồn: Hội Ung Thư Mỹ http://www.cancer.org/cancer/breastcancer/detailedguide/breast-cancer-risk-factors

Các Yếu Tố Nguy Cơ Gây Ung Thư Vú Là Gì?

Một số phụ nữ sẽ bị ung thư vú ngay cả khi không có bất kỳ yếu tố nguy cơ nào khác mà họ biết. Có yếu tố nguy cơ không có nghĩa là bạn sẽ mắc bệnh, và không phải tất cả các yếu tố nguy cơ đều có tác động như nhau. Hầu hết phụ nữ có một số yếu tố nguy cơ, nhưng hầu hết phụ nữ không bị ung thư vú.

Các yếu tố nguy cơ bạn không thể thay đổi

Nguy cơ ung thư vú tăng lên theo tuổi, hầu hết ung thư vú được chẩn đoán sau 50 tuổi.

Đột biến gen

Thay đổi di truyền (đột biến) đối với một số gen nhất định, chẳng hạn như BRCA1 và BRCA2. Những phụ nữ được thừa hưởng những thay đổi di truyền này có nguy cơ mắc ung thư vú và ung thư buồng trứng cao hơn.

Tiền sử kinh nguyệt

Kinh nguyệt sớm trước 12 tuổi và bắt đầu mãn kinh sau 55 tuổi .

Vú dày đặc có nhiều mô liên kết hơn mô mỡ, đôi khi có thể khiến bạn khó nhìn thấy khối u trên chụp quang tuyến vú. Phụ nữ có bộ ngực dày dễ bị ung thư vú.

Tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư vú

Nguy cơ mắc bệnh ung thư vú của phụ nữ cao hơn nếu có mẹ, chị gái hoặc con gái (người thân cấp một) hoặc nhiều thành viên trong gia đình bên mẹ hoặc bên cha bị ung thư vú. Có người thân nam giới cấp độ một bị ung thư vú cũng làm tăng nguy cơ mắc bệnh ở phụ nữ.

Điều trị trước đây bằng cách sử dụng xạ trị

Những phụ nữ được xạ trị vào ngực (như điều trị ung thư hạch Hodgkin) trước 30 tuổi có nguy cơ cao bị ung thư vú sau này trong cuộc đời.

Các yếu tố rủi ro bạn có thể thay đổi Không hoạt động thể chất

Phụ nữ không hoạt động thể chất có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn.

Thừa cân hoặc béo phì sau khi mãn kinh

Phụ nữ lớn tuổi thừa cân hoặc béo phì có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn so với những người có cân nặng bình thường.

Uống nội tiết tố

Một số hình thức liệu pháp thay thế hormone (bao gồm cả estrogen và progesterone) được thực hiện trong thời kỳ mãn kinh có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú khi thực hiện hơn 5 năm. Một số loại thuốc tránh thai cũng được phát hiện làm tăng nguy cơ ung thư vú.

Nhấn để phóng to ảnh

Tiền sử sinh sản

Mang thai lần đầu sau 30 tuổi, không cho con bú và không bao giờ mang thai đủ tháng có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú.

Các nghiên cứu cho thấy nguy cơ ung thư vú của phụ nữ tăng lên khi cô ấy uống nhiều rượu hơn.

Nghiên cứu cho thấy rằng các yếu tố khác như hút thuốc, tiếp xúc với hóa chất có thể gây ung thư và thay đổi các hormone khác do làm việc ca đêm cũng có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú.

Làm gì để phòng ung thư vú?

Theo BS Nguyễn Hương Trà, Bệnh viện Phụ sản Hà Nội, để phòng tránh nguy cơ mắc bệnh ung thư vú, chị em cần có chế độ ăn uống, sinh hoạt khoa học, khám vú thường xuyên và chủ động tầm soát sớm bệnh. Chị em nên thực hiện các biện pháp sau:

– Áp dụng chế độ ăn uống khoa học, ăn nhiều rau củ quả là cách ngăn ngừa ung thư vú hiệu quả.

– Giảm một số chất béo: Những thực phẩm chứa nhiều chất béo như bánh ngọt, bánh pizza, xúc xích… chứa nhiều chất béo không tốt cho sức khỏe, làm tăng nguy cơ ung thư vú. Vì thế để phòng ngừa bệnh này, chị em cần tránh các thực phẩm giàu chất béo.

– Hạn chế đồ uống có cồn: Việc tiêu thụ nhiều thức uống có cồn làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú vì lượng cồn tăng cao sẽ tăng kích thích sản xuất estrogen, tạo thuận lợi cho sự phân chia tế bào. Do đó chúng ta cần hạn chế rượu bia, đồ uống có ga.

– Bỏ thuốc lá: Để phòng ngừa ung thư vú, chị em cần tránh hút thuốc lá và hít phải khói thuốc lá thụ động.

– Đặc biệt chị em nên đi khám sức khỏe định kỳ và tầm soát phát hiện sớm ung thư để có thể phát hiện bệnh điều trị kịp thời.

Nguồn: https://dantri.com.vn/suc-khoe/cac-yeu-to-nguy-co-gay-ung-thu-vu-la-gi-20201223225112202.htm https://yeugiadinh.vn/song-khoe/cac-yeu-to-nguy-co-gay-ung-thu-vu-la-gi-d112068.html

Hà Trang – Tổ Truyền thông

Dịch Tế Học Và Các Yếu Tố Nguy Cơ Gây Ung Thư Vú

Ở Mỹ, mỗi năm có khoảng 180.000 trường hợp mới mắc và 44.000 trường hợp chết do ung thư vú.

Tại Việt Nam, theo ghi nhận ung thư ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và một số tỉnh trong nhiều năm, người ta ước tính tỷ lệ mắc UTV chuẩn theo tuổi năm 2000 là 17,4/100.000 dân, đứng đầu trong các loại UT ở nữ.

Tỷ lệ mắc UTV có khoảng dao động lớn giữa các nước. Bệnh có tỷ lệ mắc cao nhất ở Hoa Kỳ và Bắc âu, tỷ lệ mắc trung bình ở Nam ấu Tây âu và thấp nhất ở Châu á. UTV có xu hướng tăng lên ở tất cả các nước đặc biệt là các nước đang có lối sống phương Tây hoá một cách nhanh chóng như Nhật Bản và Singapore.

UTV hiếm khi gặp ở lứa tuổi dưới 30. Sau độ tuổi này, tỷ lệ mắcbệnh gia tăng một cách nhanh chóng theo tuổi. Theo thống kê của Hiệp hội phòng chống ung thư Hoa Kỳ, tỷ lệ mắc chuẩn theo tuổi tăng từ 25/100.000 dân ở độ tuổi từ 30-34 lên đến 200/100.000 dân ở độ tuổi từ 45- 49.

Ước tính trung bình cứ 8 phụ nữ Mỹ thì có 1 người mắc UTV. Tại Pháp, tỷ lệ này là 1/10. Tỷ lệ chết do UTV tăng lên theo tỷ lệ mắc. Tuy nhiên, ở một số nước phát triển mặc dù tỷ’ lệ mắc gia tăng nhanh chóng nhưng tỷ lệ chết vẫn giữ được ở mức độ ổn định nhờ các tiến bộ trong sàng lọc phát hiện bệnh sớm và những thành tựu đạt được trong điều trị, đặc biệt là điều trị hệ thống.

Người ta nhận thấy tỷ lệ mắc UTV tăng gấp 2 lần so với những năm 50 thế kỷ XX ở một số nước có nền công nghiệp phát triển mạnh trong các năm qua như Nhật Bản, Singapore, một số thành phố của Trung Quốc. . . Sự gia tăng nhanh chóng tỷ lệ mắc ở các vùng này phần nào được giải thích do sự ‘thay đổi về lối sống, kinh tế phát triển, ngày càng có nhiều phụ nữ làm việc trong lĩnh vực công nghiệp, tuổi thọ trung bình tăng, thay đổi về sinh sản, chế độ ăn. . .

Các yếu tố nguy cơ

Cho đến thời điểm hiện nay, căn nguyên bệnh sinh UTV chưa được rõ, vì thế việc phòng ngừa còn gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cũng đã tìm ra các yếu tố nguy cơ gây UTV. Việc nghiên cứu các yếu tố nguy cơ có ý nghĩa quan trọng

trong phòng bệnh và phát hiện sớm ung thư.

Người ta cho rằng ung thư biểu mô ở người nói chung và ung thư biểu mô tuyến vú nói riêng phát sinh từ những tế bào thuộc hệ biểu mô sau một hoặc nhiều sai sót trong phân chia tế bào bình thường. Sự sai sót này có thể là kết quả của sự “phá vỡ ‘ acid deoxyribonucleic (ADN) gây ra bởi một số tác nhân như bức xạ ton hóa, hóa chất hoặc virus. Những yếu tố ban đầu chắc chắn gây ra ung thư biểu mô nếu có nhiều tế bào chưa biệt hóa, những tế bào này rất dễ bị mắc bệnh còn những tế bào đã biệt hóa thì rất khó biến đổi.

Các yêu tố nội tiết

Ảnh hưởng của hormon với sự phát triển của ung thư vú đã được nhiều tác giả nghiên cứu. Estrogen và progestin là những hormon tham gia vào sự thay đổi các tế bào biểu mô tuyến vú trong quá trình sinh lý cũng như trong sinh bệnh học. Ngoài ra, prolactin và androgen có thể cũng tham gia vào những quá trình này. Estrogen thúc đẩy sự phát triển và hoạt động tăng sinh của hệ thống ông làm tăng nguy cơ ung thư vú do việc kích thích tăng sinh các tế bào chưa biệt hóa. Progestin gây cả phát triển và biệt hóa của các tế bào biểu mô và sau đó ảnh hưởng đến quá trình bảo vệ. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng, hoạt động tăng sinh trong biểu mô tuyến vú thể hiện rõ rệt nhất trong pha hoàng thể của chu kỳ kinh nguyệt.

– Nồng độ estrogen nội sinh ở những phụ nữ bị ung thư vú cao hơn so với những người không bị ung thư.

– Điều trị nội tiết có hiệu quả đối với những bệnh nhân ung thư vú có thụ thể estrogen dương tính.

– Tỷ lệ ung thư vú gặp ở đàn ông rất thấp (dưới 1% trong tổng số ung thư vú ở cả hai giới).

– Những người có kinh nguyệt sớm, mãn kinh muộn, nguy cơ ung thư vú cao.

Tiền sử kinh nguyệt và sinh sản

Số lần đẻ cũng là một yếu tố quan trọng. Phụ nữ chưa sinh đẻ lần nào nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn so với phụ nữ đã sinh đẻ một hoặc nhiều lần. Phụ nữ có thai lần đầu trên 30 tuổi nguy cơ phát triển ung thư vú tăng từ 4 đến 5 lần so với so với phụ nữ đẻ con trước tuổi 20. Phụ nữ không có con nguy cơ ung thư vú tăng gấp đôi so với những phụ nữ có từ 1 đến 2 con. Qua nghiên cứu, người ta thấy rằng nồng độ prolactin ở phụ nữ đã sinh đẻ thấp hơn so với phụ nữ chưa sinh đẻ lần nào. Như vậy, có thể nồng độ estrogen và prolactin cao sẽ thúc đẩy sự phát triển ung thư vú, điều này giải thích tại sao phụ nữ không có con nguy cơ ung thư vú cao hơn so với phụ nữ có con, nó cũng phản ánh sự thay đổi về tình trạng nội tiết ở những giai đoạn khác nhau trong đời sống sinh sản của người phụ nữ có ảnh hưởng đến nguy cơ ung thư vú.  Một số nghiên cứu mới đây tại Mỹ cho rằng, việc phá thai có sử dụng thuốc kích thích cố thể làm tăng nguy cơ ung thư vú. Daling và CS nghiên cứu trên 845 phụ nữ da trắng sinh sau năm 1944 được chẩn đoán là ung thư vú và 961 phụ nữ được chọn bốc thăm làm chứng. Kết quả cho thấy, phụ nữ dưới 18 tuổi hoặc trên 30 tuổi có phá thai sử dụng thuốc kích thích sẽ tăng tỷ lệ ung thư vú gấp 2 lần so với những phụ nữ chưa bao giờ nạo phá thai. Nạo phá thai vào tuần thứ 9 đến tuần thứ 12 cũng làm tăng nguy cơ ung thư vú gấp 2 lần.

Hormon tránh thai

Vào năm 1996, một nghiên lớn phân tích 53297 phụ nữ ung thư vú và 100239 phụ nữ không ung thư vú được tổng hợp từ 54 nghiên cứu về dịch tễ học của nhiều quốc gia đã kết luận rằng phụ nữ sử dụng thuốc tránh thai phối hợp và liên tục có tăng nguy cơ ung thư vú trong giai đoạn 10 năm sau đó. Đối với những phụ nữ trước đây đã sử dụng thuốc thì chỉ có rất ít hoặc không có nguy cơ ung thư vú sau khi đã dừng điều trị 10 năm. Trong số những bệnh nhân ung thư vú, những người sử dụng thuốc tránh thai có tiến triển về lâm sàng chậm hơn so với nhóm chưa bao giờ sử dụng thuốc. Thời gian dùng thuốc kéo dài cũng được coi là một yếu tố đánh giá ảnh hưởng của những hormon này như một yếu tố nguy cơ ung thư vú. Người ta ước tính rằng nguy cơ phát triển ung thư vú tăng từ 2 đến 3 lần khi sử dụng estrogen trên 10 năm đối với những phụ nữ đã cắt buồng trứng.

Vào năm 1989, một nghiên cứu đã ước tính nguy cơ phát triển ung thư vú trước tuổi 45 sử dụng thuốc tránh thai dưới 10 năm tăng 2 lần, nếu trên 10 năm sử dụng thì nguy cơ tăng 4,1 lần so với những người không dùng thuốc. Nghiên cứu của Miller và CS

Điều trị hormon thay thế sau mãn kinh

Nguy cơ tiềm tàng đối với sự phát triển ung thư vú thứ phát do sử dụng hormon thay thế cần phải được xem xét lại về những lợi ích của nó bởi nó làm giảm tử vong do nhồi máu cơ tim cấp, bệnh tim do thiếu máu cục bộ. Các nghiên cứu đã khẳng định chắc chắn rằng sử dụng estrogen thường xuyên sẽ làm thay đổi nồng độ đáng kể lipoprotein trong máu. Sự lựa chọn trong việc dùng hormcon thay thế cần phải được cân nhắc kỹ để xem xét những mặt lợi và mặt hại của nó nhằm đạt được kết quả mong muốn nhất trên từng bệnh nhân. Việc dùng thêm progestin trong chế độ dùng hormon thay thế cũng cần phải tránh trên những bệnh nhân đã cắt tử cung hoàn toàn do bị ung thư nội mạc tử cung.

Các Yếu Tố Nguy Cơ Gây Bệnh Ung Thư

Một yếu tố nguy cơ có thể là nguyên nhân chính gây ra rất nhiều bệnh như là ung thư. Các loại yếu tố nguy cơ khác nhau gây nên các loại ung thư khác nhau. Ngày nay, các nghiên cứu đã chỉ ra một số yếu tố nhất định sẽ làm tăng nguy cơ mắc ung thư. Do đó, Hạn chế tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ tránh được có thể làm giảm nguy cơ phát triển một số loại ung thư nhất định.

1. THUỐC LÁ

Trên toàn thế giới, việc sử dụng thuốc lá gây ra cái chết của khoảng 6 triệu người mỗi năm từ ung thư và các bệnh khác. Khói thuốc lá có chứa hơn 7000 hóa chất, trong đó có ít nhất 250 chất có hại và hơn 50 chất gây ra ung thư.

Hút thuốc lá gây ra nhiều loại ung thư, bao gồm ung thư phổi, thực quản, thanh quản, miệng, cổ họng, thận, bàng quang, tụy, dạ dày và cổ tử cung. Hút thuốc thụ động  gây gây ung thư phế quản. Thuốc lá không khói (kẹo nhai…) gây ung thư miệng, thực quản và tụy.  

 

2. THIẾU HOẠT ĐỘNG, THỪA CÂN BÉO PHÌ VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG DINH DƯỠNG

Chế độ ăn uống hợp lý rất quan trọng trong việc kiểm soát ung thư. Thừa cân và béo phì là nguyên nhân gây ra nhiều loại ung thư khác nhau như thực quản, đại tràng, vú, nội mạc tử cung và thận. Do đó, việc ăm nhiều trái cây và rau quả sạch có tác dụng hỗ trợ, giúp chống lại nhiều loại ung thư. Hoạt động thể chất thường xuyên, duy trì cơ thể khỏe mạnh cũng như có một chế độ ăn uống lành mạnh giúp làm giảm đáng kể nguy cơ mắc một số bệnh ung thư.

3. SỬ DỤNG RƯỢU

Sử dụng rượu có thể gây ra nhiều loại bệnh ung thư khác nhau như ung thư khoang miệng, vòm họng, thanh quản, thực quản, gan, kết trực tràng và vú. Nguy cơ ung thư tăng lên nếu sử dụng rượu quá nhiều. Đối với một số loại ung thư, sử dụng rượu có nồng độ cồn cao kết hợp với thuốc làm tăng nguy cơ mắc. Trong năm 2010, các trường hợp ung thư do rượu bia gây ra 337.400 cái chết trên toàn thế giới.

4. NHIỄM TRÙNG

        Trong năm 2012, khoảng 15% các loại ung thư là do các tác nhân gây bệnh như HP, HPV, viêm gan B và C và EBV. Hai phần ba số ca tử vong do nhiễm trùng (1,4 triệu trường hợp) xảy ra ở những nước kém phát triển. Vắc xin cho viêm gan B và một số loại HPV và có thể làm giảm nguy cơ ung thư gan và ung thư cổ tử cung.

5. Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG 

Ô nhiễm không khí, nước và đất với các chất gây ung thư gây ra ung thư ở các mức độ khác nhau tùy thuộc vào vị trí. Ước tính ô nhiễm không khí gây ra 3,2 triệu trường hợp tử vong sớm trên toàn thế giới trong năm 2012, bao gồm hơn 200.000 ca tử vong do ung thư phổi. Ô nhiễm không khí do đốt than tăng gấp đôi nguy cơ ung thư phổi, đặc biệt là trong số phụ nữ không hít khói.

6. CÁC CHẤT GÂY UNG THƯ NGHỀ NGHIỆP

7. CÁC TIA BỨC XẠ

Tiếp xúc với các loại bức xạ ion hóa, từ cả nguồn tự nhiên lẫn nhân tạo, sẽ làm tăng nguy cơ mắc các loại ung thư khác nhau bao gồm ung thư bạch cầu và ung thư biểu mô. Tia cực tím (UV), và đặc biệt là bức xạ mặt trời, gây ra tất cả các loại ung thư da, như ung tế bào đáy (BCC), ung thư biểu mô tế bào vảy (SCC) và ung thư hắc tố da.

Bức xạ được sử dụng trong y học có thể giúp cứu sống người bệnh. Tuy nhiên, việc sử dụng không phù hợp có thể gây hại không chủ ý cho bệnh nhân. Do đó, các xét nghiệm bức xạ và các thủ tục nên được quy định phù hợp và thực hiện đúng để giảm liều bức xạ không cần thiết đến cho bệnh nhân.