Xét Nghiệm Ung Thư Hắc Tố / Top 5 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Sept.edu.vn

U Tế Bào Hắc Tố (Ung Thư Tế Bào Hắc Tố)

Để hiểu biết về u hắc tố cần phải tìm hiểu về da và các tế bào hắc tố. Chúng có chức năng gì, chúng phát triển như thế nào và điều gì xảy ra khi chúng trở thành tế bào ung thư da. Da là bộ phận lớn nhất của cơ thể. Nó bảo vệ cơ thể chống lại hơi nóng,

U tế bào hắc tố (ung thư tế bào hắc tố) là bệnh gì?

Da là bộ phận lớn nhất của cơ thể. Nó bảo vệ cơ thể chống lại hơi nóng, ánh nắng mặt trời, tổn thương và nhiễm khuẩn. Da giúp điều hòa nhiệt độ cơ thể, dự trữ nước, mỡ và sản xuất vitamin D. Da có hai lớp chính: lớp biểu bì ngoài và lớp chân bì trong.

Lớp biểu bì chủ yếu được cấu tạo từ những tế bào dẹt giống vẩy, được gọi là tế bào vẩy. Các tế bào hình tròn được gọi là tế bào đáy nầm ở dưới các tế bào vẩy trong lớp biểu bì. Phần dưới của lớp biểu bì còn có tế bào hắc tố.

Chân bì có chứa các mạch máu, mạch bạch huyết, nang lông và các tuyến. Một số trong các tuyến này tiết mồ hôi giúp điều hòa thân nhiệt và một số tuyến tiết ra chất nhờn – là một chất dầu làm cho da không bị khô. Mồ hôi và chất nhờn được đưa lên bề mặt da qua những lỗ nhỏ, gọi là lỗ chân lông.

Tế bào hắc tố và nốt ruồi

Tế bào hắc tố có mặt ở toàn bộ phận dưới của lớp biểu bì. Chúng tiết ra melanin, một loại sác tố làm cho da có màu tự nhiên. Khi da tiếp xúc với ánh náng mặt trời, tế bào hắc tố tiết ra nhiều sắc tố hơn làm cho da bị rám nắng hoặc đen đi.

Đôi khi, các đám tế bào hắc tố và mô lân cận hình thành nên các mụn lành tính (không phải ung thư) được gọi là nốt ruồi (bác sĩ còn gọi là nevus). Nốt ruồi rất phổ biến. Hầu hết mọi người có từ khoảng 10 - 40 mụn có màu tươi, hồng, rám nắng hoặc màu nâu trên da. Nốt ruồi có thể phẳng hoặc lồi.

Chúng thường có hình tròn hoặc oval và thường nhỏ hơn đầu tẩy bút chì. Chúng có thể xuất hiện từ lúc mới sinh ra hoặc về sau này – thường là trước tuổi 40. Thông thường các nốt ruồi phát triển và thay đổi rất ít theo thời gian. Chúng có xu hướng mờ đi ở người già. Khi được cắt bỏ, nốt ruồi thường không xuất hiện trở lại.

U hắc tố

U hắc tố xuất hiện khi tế bào hắc tố trở thành ác tính. Hầu hết tế bào hắc tố nằm trong da, khi u hắc tố xuất hiện ở da thì loại ung thư này được gọi là u hắc tố da. U hắc tố có thể xuất hiện ở nhãn cầu và được gọi là u hắc tố nhãn cầu. Hiếm khi u hắc tố xuất hiện ở màng não, ống tiêu hóa, hạch hoặc các vùng khác nơi có tế bào hắc tố. 

U hắc tố có thể xuất hiện ở bất kỳ vị trí nào trên bề mặt da. Ở nam giới, nó thường xuất hiện ở phần thân (giữa vai và hông) hoặc là vùng đầu và cổ. Ở nữ giới, u hắc tố thường xuất hiện ở phần dưới chân, u hắc tố hiếm khi xuất hiện ở những người da đen và những người có da sẫm màu.

Khi nó xuất hiện ở những người da sẫm màu thì thường ở dưới móng tay hoặc móng chân hoặc ở lòng bàn tay hoặc là gan bàn chân. Nguy cơ phát triển u hắc tố tăng lên theo độ tuổi, nhưng loại ung thư này có thể gặp ở mọi lứa tuổi, u hắc tố là một trong những loại ung thư phổ biến nhất ở thanh niên.

Khi u hắc tố di căn, tế bào ung thư xuất hiện ở hạch. Nếu ung thư di căn vào hạch thì có nghĩa là ung thư đã di căn tới các bộ phận khác của cơ thể như gan, phổi hoặc não. Trong những trường hợp như vậy, tế bào ung thư trong khối u mới vẫn là tế bào u hắc tố và bệnh này được gọi là u hắc tố di căn chứ không phải là ung thư gan, ung thư phổi hay ung thư não.

Triệu chứng u tế bào hắc tố

Triệu chứng của u tế bào hắc tố bao gồm:

Hình dạng của hai nửa không đối xứng.

Ranh giới: Mép nốt ruồi thường lởm chởm, có vết khía, không rõ hoặc đường bao quanh mụn không đồng đều; sắc tố có thể lan tới vùng da xung quanh.

Màu sắc: Màu sắc không đồng đều. Có thể có nét màu đen, nâu và rám nắng. Cũng có thể nhìn thấy những vùng có màu trắng, xám, đỏ, hồng hoặc xanh lơ.

Đường kính: Có sự thay đổi về kích thước, thường là tăng lên. U hắc tố thường lớn hơn đầu tẩy bút chì (5mm).

Hình dạng: có thể rất khác nhau. Nhiều u hắc tố biểu hiện tất cả các đặc tính mô tả ở trên. Tuy nhiên, một số u hắc tố biểu hiện sự thay đổi hoặc bất thường chỉ ở một hoặc hai đặc tính đó.

Khi nào cần đi khám bác sĩ?

Đi khám bác sĩ hoặc Gọi thoại – Gọi video với bác sĩ chuyên khoa Ung bướu trên hệ thống khám từ xa Wellcare khi xuất hiện các triệu chứng như nốt ruồi đã có từ trước đó thay đổi kích thước, màu sắc, nốt ruồi cứng lại, nổi cục, ngứa, chảy mủ, chảy máu… để được tư vấn, chẩn đoán và hướng dẫn điều trị.

Nguyên nhân gây u tế bào hắc tố

Bình thường các tế bào da phát triển theo một trình tự tổ chức rất chặt chẽ trong biểu bì. Những tế bào mới còn non đẩy những tế bào trưởng thành lên bề mặt da. Khi các tế bào lên đến lớp trên cùng, chúng chết đi và bị tróc ra.

Ung thư da là kết quả của sự phát triển bất thường của các tế bào da. Nguyên nhân chính là do da bị tổn thương bởi tia cực tím. Đây là một loại sóng ánh sáng phát ra từ ánh sáng mặt trời và thường được sử dụng trong các kỹ thuật làm sạm da (giường tắm nắng nhân tạo…). Tia cực tím có thể xuyên qua da và làm tổn thương các tế bào, chịu trách nhiệm cho phần lớn các trường hợp ung thư da cũng như các vết nhăn và nốt tàn nhang do tuổi.

Có 2 loại tia cực tím là A (UVA) và B (UVB). Tia UVA xuyên qua da sâu hơn tia UVB, do vậy sau một thời gian phơi nhiễm tia này, khả năng chống ung thư của bạn sẽ bị suy yếu. Tia UVB, do xuyên qua da kém hơn, nên thường gây bỏng nắng và chịu trách nhiệm cho các ung thư lớp nông, ung thư tế bào sừng hoặc tế bào đáy.

Yếu tố nguy cơ gây u tế bào hắc tố

Bằng cách nghiên cứu các dạng ung thư trong cộng đồng, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy một số yếu tố nguy cơ nhất định thường gặp ở những bệnh nhân u hắc tố hơn so với những người không mắc bệnh.

Tiền sử bản thân và gia đình

Tiền sử bản thân u hắc tố: Những bệnh nhân đã được điều trị u hắc tố có nguy cơ phát triển u hắc tố lần thứ hai cao hơn.

Tiền sử gia đình: Có hai hay nhiều người thân ruột thịt bị bệnh là một yếu tố nguy cơ vì u hắc tố đôi khi di truyền trong gia đình. Khoảng 10% số bệnh nhân u hắc tố có người thân trong gia đình cũng bị loại ung thư này. Khi u hắc tố di truyền trong gia đình, các thành viên gia đình nên đến bác sĩ khám định kỳ.

Nevi loạn sản

Nevi loạn sản có khả năng phát triển thành ung thư cao hơn nốt ruồi thông thường. Nhiều người chỉ có một vài nốt ruồi bất thường này; càng có nhiều nevi loạn sản thì nguy cơ phát triển u hắc tố càng cao. Nguy cơ này đặc biệt cao đối với những người có cả tiền sử gia đình bị u hắc tố và cả nevi loạn sản.

Hệ miễn dịch suy yếu

Những người có hệ miễn dịch bị suy yếu do một số loại ung thư nhất định, bởi các loại thuốc điều trị sau khi ghép tạng hoặc do bệnh AIDS có nguy cơ phát triển u hắc tố cao hơn.

Nhiều nốt ruồi thông thường

Nhiều nốt ruồi thông thường (hơn 50), bởi vì u hắc tố thường xuất phát từ tế bào hắc tố của một nốt ruồi đã có, việc có nhiều nốt ruồi làm tăng nguy cơ mắc bệnh.

Tia cực tím

Tia cực tím từ mặt trời có thể gây ra hiện tượng lão hóa sớm ở da và sự huỷ hoại da từ đó có thể dẫn đến u hắc tố.

Các vết bỏng nắng nghiêm trọng

Những người có một hoặc nhiều vết bỏng nắng bị phồng rộp nghiêm trọng khi còn nhỏ tuổi có nguy cơ phát triển u hắc tố cao hơn. Do vậy, bác sĩ khuyên nên bảo vệ da trẻ em tránh tia nắng mặt trời, họ hi vọng rằng việc này sẽ giúp phòng chống hoặc ít ra là làm giảm nguy cơ phát triển u hắc tố của trẻ em sau này. Bỏng nắng ở người lớn cũng là một yếu tố nguy cơ của u hắc tố.

Da trắng

U hắc tố xuất hiện nhiều ở những người có nước da trắng có thể dễ bị cháy nắng hoặc tàn nhang (những người này thường có tóc màu vàng hoặc màu đỏ và mắt màu xanh) hơn là những người có nước da sẫm màu. Người da trắng thường bị u hắc tố nhiều hơn nhiều so với người da đen, có lẽ bởi vì da sáng màu dễ bị ánh mặt trời huỷ hoại hơn.

Chẩn đoán u tế bào hắc tố

U hắc tố có thể được chữa khỏi nếu được chẩn đoán và điều trị khi khối u còn nông và vẫn chưa xâm lấn sâu vào da. Tuy nhiên, nếu u hắc tố không được cắt bỏ ở giai đoạn sớm, tế bào ung thư có thể phát triển từ bề mặt da sâu xuống dưới, xâm lấn vào mô lành. Khi u hắc tố trở nên dày và sâu, bệnh thường lan sang các bộ phận khác của cơ thể và khó kiểm soát.

Nếu bác sĩ nghi nốt trên da là u hắc tố thì bệnh nhân sẽ cần được tiến hành sinh thiết. Sinh thiết là cách duy nhất để đưa ra chẩn đoán chắc chắn. Trong khi thực hiện sinh thiết bác sĩ cố gắng cắt bỏ toàn bộ nốt nghi ngờ này.

Đôi khi, cần phải lấy hạch lân cận để quan sát dưới kính hiển vi (phẫu thuật này cũng được coi là một phần của điều trị vì có thể giúp kiểm soát được bệnh). Bác sĩ cũng phải thăm khám kỹ lưỡng và tuỳ thuộc vào độ dày của khối u có thể yêu cầu chụp X-quang lồng ngực; xét nghiệm máu; chụp cắt lớp vi tính gan, xương và não.

Phương pháp điều trị u tế bào hắc tố

Phẫu thuật

Phẫu thuật để cắt bỏ u hắc tố là phương pháp điều trị chuẩn cho loại ung thư này. Cần phải cắt bỏ không chỉ có khối u mà còn phải cắt cả một phần mô lành xung quanh nó để giảm khả năng tế bào ung thư còn sót lại trong vùng đó xuống mức thấp nhất.

Độ rộng và chiều sâu của lớp da xung quanh cần phải cắt bỏ phụ thuộc vào độ dày của u hắc tố và độ sâu u xâm nhập vào da. Trong những trường hợp u rất nhỏ và có thể cắt bỏ tất cả mô ung thư trong quá trình sinh thiết, thì không cần tiến hành phẫu thuật nữa. Nếu không thể cắt bỏ toàn bộ u hắc tố trong quá trình tiến hành sinh thiết thì bác sĩ sẽ cắt bỏ mô ung thư còn sót lại khi tiến hành phẫu thuật.

Nếu cắt bỏ một mảng mô lớn thì có thể phải tiến hành ghép da đồng thời. Trong quá trình này bác sĩ lấy da ở bộ phận khác của cơ thể để thay thế cho lớp da đã được cắt bỏ, hạch bạch huyết ở gần khối u cũng có thể được cắt bỏ trong khi phẫu thuật bởi vì ung thư có thể lan vào hệ bạch huyết. Nếu bác sĩ giải phẫu bệnh tìm thấy tế bào ung thư trong hạch điều đó có nghĩa là bệnh đã di căn sang các bộ phận khác của cơ thể.

Hóa trị liệu

Hóa trị liệu là phương pháp sử dụng thuốc để tiêu diệt tế bào ung thư. Nói chung, đây là phương pháp điều trị toàn thân, có nghĩa là nó có thể ảnh hưởng tới các tế bào ung thư trên toàn bộ cơ thể. Trong hóa trị liệu, một hoặc nhiều thuốc điều trị ung thư được đưa vào cơ thể bằng cách uống hoặc tiêm vào mạch máu. Cho dù thuốc được đưa vào cơ thể bằng con đường nào thì nó cũng đi vào mạch máu và tuần hoàn trên toàn cơ thể.

Hóa trị liệu thường được điều trị theo đợt: một đợt điều trị sau đó là một thời gian nghỉ hồi sức, sau đó là một đợt điều trị khác và cứ tiếp tục như vậy. Bệnh nhân được điều trị bằng hóa chất thường là bệnh nhân ngoại trú. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào loại thuốc điều trị và tình trạng sức khỏe chung bệnh nhân có thể phải nằm viện trong một thời gian ngắn.

Một cách đưa thuốc vào cơ thể hiện đang được nghiên cứu được gọi là truyền thuốc vào chi. Nó đang được thử nghiệm đối với u hắc tố chỉ xuất hiện ở một tay hoặc một chân. Khi tiến hành truyền thuốc vào chi, người ta dùng garô để ngăn dòng máu tới chi và rời khỏi chi trong một khoảng thời gian.

Sau đó thuốc điều trị ung thư được truyền vào mạch máu ở chi. Bệnh nhân tiếp nhận liều thuốc cao trực tiếp vào vùng có u hắc tố. Vì hầu hết các loại thuốc điều trị ung thư chỉ lưu hành ở một chi nên phương pháp này không hẳn là một phương pháp điều trị toàn thân.

Liệu pháp sinh học

Cơ thể thường sản xuất ra một lượng nhỏ những chất này khi có nhiễm khuẩn và bệnh tật. Nhờ vào các kỹ thuật trong phòng thí nghiệm hiện đại, các nhà khoa học có thể sản xuất ra một lượng lớn các chất điều biến đáp ứng sinh học để sử dụng trong điều trị ung thư.

Trong một số trường hợp, liệu pháp sinh học có thể được sử dụng sau khi phẫu thuật để ngăn ngừa u hắc tố tái phát. Đối với bệnh nhân có u hắc tố đã di căn hoặc có nguy cơ tái phát bệnh cao bác sĩ có thể chỉ định interferon-alfa và interleukin-2 (còn được gọi là aldesleukin) sau phẫu thuật. Các loại thuốc kích thích dòng tế bào (CSF) và các loại vaccin chống ung thư là những ví dụ của các chất điều biến đáp ứng sinh học hiện đang được nghiên cứu.

Tia xạ

Trong một số trường hợp, tia phóng xạ được sử dụng để làm giảm triệu chứng của u hắc tố. Xạ trị là phương pháp sử dụng các tia có năng lượng cao để tiêu diệt tế bào ung thư.

Đây là phương pháp điều trị tại chỗ; nó chỉ ảnh hưởng tới tế bào trong vùng chiếu xạ. Xạ trị là phương pháp được sử dụng nhiều nhất để kiểm soát ung thư đã di căn vào não, xương và các bộ phận khác của cơ thể.

Phòng ngừa u tế bào hắc tố

Một nguyên tắc đơn giản khác là bảo vệ cơ thể của bạn tránh những tia nắng mặt trời khi bóng của bạn ngắn hơn người. Cũng có thể đội mũ và mặc áo dài tay để bảo vệ cho bạn.

Hơn nữa, thuốc mỡ, kem dưỡng da hoặc gel có chứa kem chống nắng có thể giúp bảo vệ da. Nhiều bác sĩ cho rằng kem chống nắng có thể giúp phòng chống u hắc tố, đặc biệt là những loại kem phản chiếu, hấp thụ hoặc phân tán cả hai loại tia cực tím.

Kem chống nắng được đánh giá mức độ mạnh theo yếu tố chống mặt trời (SPF). SPF càng cao thì khả năng chống lại tia nắng mặt trời càng lớn. Kem chống nắng có mức độ SPF từ 2 – 11 có khả năng chống lại ánh mặt trời thấp nhất. Kem chống nắng có mức độ SPF từ 12 đến 29 có khả năng chống lại ánh mặt trời ở mức trung bình. Những loại kem có SPF từ 30 trở lên có khả năng chống lại ánh nắng mặt trời cao.

Nên đeo kính râm có mắt kính có thể hấp thụ tia cực tím. Nhãn hiệu trên kính nên ghi rõ mắt kính có thể ngăn lại ít nhất 99% tia cực tím UVA và UVB.

Chế độ chăm sóc bệnh nhân u tế bào hắc tố

Khám định kỳ và theo dõi sau điều trị.

Điều đặc biệt quan trọng đối với các bệnh nhân có nevi loạn sản và có tiền sử gia đình bị u hắc sắc tố là phải đi khám định kỳ. Bệnh nhân nên khám da hàng tháng và làm theo lời khuyên của bác sĩ về cách làm giảm nguy cơ phát triển u hắc tố mới.

Nguy cơ tái phát bệnh ở những bệnh nhân có u hắc tố xuyên sâu hoặc đã lan tới mô lân cận lớn hơn so với các bệnh nhân có u nhỏ. Các xét nghiệm theo dõi những bệnh nhân có nguy cơ bệnh tái phát cao có thể bao gồm chụp X-quang; xét nghiệm máu; chụp cắt lớp vi tính lồng ngực, gan, xương và não.

Ung Thư Tế Bào Hắc Tố Và Những Triệu Chứng Ung Thư Tế Bào Hắc Tố

Ung thư tế bào hắc tố là do sự loạn sản của tế bào hắc tố. Đây là loại ung thư da cực kỳ nguy hiểm vì nó sẽ xâm lấn sâu sau đó di căn sang các bộ phận khác của có thể và hoàn toàn có thể gây tử vong như các loại ung thư khác.

Một số thông tin cần biết về ung thư tế bào hắc tố

ung thư tế bào hắc tố có biểu hiện ban đầu rất đa dạng và đơn giản thường dễ bị bỏ qua mặc dù tổn thương ở ngay trên da đến khi phát hiện thì đã ở giai đoạn muộn tế bào ung thư đã di căn xa, khó chữa trị.

Một số thông tin cần biết về ung thư tế bào hắc tố

Bệnh có thể tiến triển từ một số tổn thương lành tính trên da như nốt ruồi, bớt hắc tố, u hắc tố (đồi mồi ở người cao tuổi), nên cần có sự can thiệp và sự quan tâm đúng đắn với những tổn thương lành tính này.

Nếu phát hiện bệnh sớm có thể điều trị khỏi hoàn toàn, cho nên vấn đề chẩn đoán sớm ung thư da càng trở lên cần thiết và quan trọng.

Những triệu chứng ung thư tế bào hắc tố

Bệnh tiến triển từ những tổn thương lành tính trên da:

+ Nốt ruồi

Nốt ruồi có thể là triệu chứng ung thư tế bào hắc tố ung thư tế bào hắc tố phát có thế triển trên một nốt ruồi sẵn có thường hay bị đụng chạm sờ mó, hoặc bị ánh nắng tác động nhiều lần, nhưng không phải nốt ruồi nào cũng biến thành ung thư, tỷ lệ chỉ chiếm một phần rất nhỏ.

Ung thư tế bào hắc tố phát có thể triển trên một nốt ruồi sẵn có thường

Từ một nốt ruồi bình thường đột nhiên hình dạng, kích thước thay đổi, hay chảy máu lớn nhanh, ngứa ngáy. Nốt ruồi biến màu sẫm dần và đặc biệt nếu có dấu hiệu loét, sùi hoặc đang từ màu nâu đồng nhất trở nên đa sắc. Đường viền bình thường rõ và đối xứng, trở nên không đều, nham nhở, bất đối xứng. Bề mặt nốt ruồi mất các vân da bình thường…

+ Từ các bớt hắc tố trên da

Trên một vùng da sẫm màu (bớt) đột nhiên nổi sần lên, loét, ngứa, chảy máu hoặc thay đổi màu sắc…

+ Từ u hắc tố

U hắc tố là một tổn thương lành tính, thường gặp ở người cao tuổi, nhưng cũng có những biểu hiện bất thường và trở thành ung thư

U hắc tính cũng có thể phát triển thành ung thư

+ Trên da xuất hiện thêm các nốt ruồi mới, nhất là ở tuổi trên 30, nốt ruồi có hình ảnh không cân đối, bờ không đều hoặc hình răng cưa, chỗ lồi chỗ lõm, màu sắc không đều, đường kính lớn bất thường (trên 6 mm).

+ Vết lở loét có bờ cứng khó lành có u nhú hạt và gây chảy máu nhiều…

+ Trên da xuất hiện một vùng da nhỏ nhám ráp, to nhanh dần trong một thời gian ngắn cũng là triệu chứng ung thư tế bào hắc tố.

+ Vết bầm tím trên da không lành, mảng màu nâu xám ở đầu ngón hoặc vết tím trên móng đột ngột đổi màu và chuyển thành cục hoặc chảy máu.

Nguyên Nhân Gây Bệnh Ung Thư Hắc Tố.

Thứ hai, 22/12/2014 09:40

Ung thư hắc tố là một loại của ung thư da. Bệnh không chỉ ảnh hưởng đến yếu tố thẩm mỹ, tinh thần mà còn đe dọa trực tiếp đến tính mạng của bệnh nhân.

Đây là một căn bệnh nguy hiểm, tìm hiểu nguyên nhân làm gia tăng nguy cơ mắc bệnh giúp con người có phương pháp chủ động phòng ngừa.

1. Ánh nắng mặt trời.

Ánh nắng mặt trời có vai trò quan trọng trong sinh hoạt hàng ngày và có tác dụng tốt cho sức khỏe con người. Tuy nhiên, ánh nắng mặt trời cũng là nguyên nhân trực tiếp gây ra các bệnh lý nguy hiểm trong đó có bệnh ung thư hắc tố.

Tia UV trong ánh nắng mặt trời có khả năng phá hủy cấu trúc lớp biểu bì da gây nên hiện tượng tích tụ melanin. Khi lượng melanin bị tích tụ nhiều gây ra các vết nám, tàn nhang hay nốt ruồi, làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư hắc tố.

Để hạn chế nguy cơ mắc bệnh các chuyên gia khuyên bạn nên:

– Tránh tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng mặt trời. Ánh nắng mặt trời tốt nhất là khoảng thời gian trước 9 giờ sáng và sau 17 giờ chiều. Ngoài khoảng thời gian này khi đi ra ngoài bạn cần bảo vệ da bằng các đồ dùng như khẩu trang, áo chống nắng, mũ, nón…

– Sử dụng kem chống nắng. Nhiều bạn trẻ có thói quen tắm nắng hay sở thích đi biển, đi picnic. Trong nhữn trường hợp này làn da của bạn thường xuyên phải tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Để bảo vệ làn da cũng như giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh bạn nên thoa một lớp kem chống nắng trước khi ra ngoài khoảng 20 phút.

2. Những người mắc bệnh khô da sắc tố.

Những người mắc bệnh khô da sắc tố quá trình khôi phục DNA bị tổn thương. Đối với những bệnh nhân mắc bệnh này khi bị tia UV của ánh nắng mặt trời chiếu vào chức năng khôi phục bị tổn thương bị thiếu, da của người bệnh không có axit nucleic dẫn đến hiện tượng da không được khôi phục sau khi bị phá hỏng. Bệnh nhân giai đoạn đầu sẽ có hiện tượng viêm da, nhiễm trùng da và có nguy cơ mắc bệnh ung thư hắc tố.

3. Tắm trắng.

Trào lưu tắm trắng hiện nay đang thu hút được đông đảo các quý cô, quý bà sử dụng. Lợi ích trước mắt của phương pháp này là chỉ cần bỏ ra một khoản tiền, trong một thời gian ngắn khách hàng được sở hữu một làn da trắng hồng không tỳ vết.

Tuy nhiên, hiểm họa không ngờ từ công nghệ này mà các bạn không biết đến là làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư da.

Bản chất của công nghệ tắm trắng là dưới sự hỗ trợ của một số thiết bị chuyên dụng và hóa chất tẩy trắng lớp biểu bì của da sẽ được loại bỏ để lộ lớp da non. Lớp da này thường dễ tổn thương dưới sự tác động của các yếu tố môi trường như khói, bụi, ánh nắng mặt trời…

Để hạn chế nguy cơ mắc bệnh các bạn không nên lạm dụng các công nghệ tắm trắng, làm đẹp siêu tốc. Đặc biệt không nên sử dụng những loại mỹ phẩm rẻ tiền, không rõ nguồn gốc xuất sứ, nhãn mác. Nhiều trường hợp cho thấy sử dụng những loại mỹ phẩm này nếu nhẹ thì gây kích ứng da, viêm da dị ứng nhiều trường hợp nặng thì dẫn đến nguy cơ ung thư.

Phát hiện và điều trị ung thư hắc tố sớm là lời khuyên hàng đầu của các chuyên gia.

Bạn có thể đến Bệnh Viện Ung Bướu Hưng Việt địa chỉ 34 Đại Cồ Việt – Hai Bà Trưng – Hà Nội để được các bác sỹ của chúng tôi tư vấn và thăm khám trực tiếp.

Để đặt lịch khám trước vui lòng liên hệ theo đường dây 0949.51.07.07 hoặc 0462.50.07.07.

Mọi ý kiến đóng góp quý vị vui lòng gửi về địa chỉ email bvubhungviet@gmail.com.

Ung Thư Tế Bào Hắc Tố

1. ĐẠI CƯƠNG

Ung thư tế bào hắc tố ( Malignant melanoma – MM) chiếm khoảng 5% các ung thư da và khoảng 1% các loại ung thư. Theo nhiều nghiên cứu thì số lượng bệnh nhân ung thư tế bào hắc tố ngày càng tăng. Riêng ở Na Uy và châu úc, chỉ trong thời gian 10 nám từ 1970 đến 1980 số bệnh nhân bị ung thư tế bào hác tố đã táng lên gấp đôi. Theo một số nghiên cứu những năm gần đây, tốc độ tăng của bệnh vẫn duy trì ở mức độ cao trên toàn thế giới, đặc biệt ở châu Úc, Bắc Mỹ, và các nước bắc Âu. Ở Mỹ năm 2006 có 111.900 trường hợp ung thư tế bào hắc tố được phát hiện.

Bệnh gặp ở mọi chủng tộc. Tuy nhiên, người da trắng mắc bệnh với tỉ lệ cao nhất. Tại một số vùng ở úc, tỉ lệ lưu hành của bệnh khoảng 40 ca mới mắc trên 100 000 dân một năm.

Phần lớn các bệnh nhân mắc ung thư tế bào hắc tố gặp ở người nhiều tuổi, tuổi trung bình mắc bệnh khoảng 60, ít gặp ở người trẻ. Tỉ lệ mắc bệnh ở cả hai giới là tương đương nhau.

2. SINH BỆNH HỌC

Ánh nắng mặt trời là tác nhân chủ yếu gây ung thư tế bào hắc tố, trong đó tia cực tím ultra violet (ƯV), thể gây nên những biến đổi của nhiễm sắc thể. Đây có thể là nguồn gốc của ung thư. Do vậy, càng ở những vùng có nhiều tia cực tím thì nguy cơ mắc bệnh càng cao.

Cháy nắng là yếu tố thuận lợi đối vói ung thư tế bào hắc tố. Hầu hết các trường hợp mắc ung thư tế bào hắc tố đều có tiền sử bị cháy nắng khi còn trẻ. Người ta thấy rằng những người da trắng, làm việc trong văn phòng ít tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, chỉ bị cháy nắng 1 đến 2 lần trong dịp nghỉ mỗi năm có tỉ lệ mắc bệnh cao.

Ung thư tế bào hắc tố rất hiếm gặp ở trẻ em. Theo các nhà giải phẫu học, ở trẻ em rất khó phân biệt giữa nốt ruồi spitz và ung thư tế bào hắc tố dạng spitz. Trong trường hợp đó, phẫu thuật cắt rộng và theo dõi sau phẫu thuật là rất quan trọng. Theo kết quả một số nghiên cứu, khoảng 5% ung thư tế bào hắc tố xuất hiện trên bớt bẩm sinh, nhất là các bớt bẩm sinh khổng lồ. Rất hiếm gặp ung thư tế bào hắc tố ở trẻ sơ sinh, xuất hiện tự nhiên hay di căn từ mẹ sang con qua rau thai.

Theo một số nghiên cứu, 2 đến 5% ung thư tế bào hắc tố có tính chất gia đình. 30% những bệnh nhân có tiền sử gia đình mắc ung thư tế bào hắc tố có những bất thường của gen pl6 trên chromosome 9p21. Gen p 16 mã hóa cho men Cyclin- dependent kinase inhibitor 2 (CDKN-2a) có tác dụng kiểm soát các tế bào trước khi bước vào giai đoạn GI của quá trình phân bào. Do vậy, khi có sự bất thường ở gen này thì sự nhân lên của các tế bào sẽ không được kiểm soát.

Sắc tố da có tác dụng bảo vệ da. Những người có da thuộc type 1, 2, 3 có nguy cơ mắc ung thư tế bào hác tố cao hơn những người da màu.3. TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG3.1. Ung thư tế bào hắc tố nông

Thể này thường gặp ở người da trắng (chiếm 70% ung thư tế bào hắc tố ở người da trắng), lứa tuổi từ 40 đến 50. Tổn thương xuất hiện ở bất kỳ vị trí nào của cơ thể. Tuy nhiên, phụ nữ thường bị ở cẳng chân và nam giới lại gặp nhiều ở lUng. Lúc đầu tổn thương có màu nâu xen kẽ màu xanh, bờ không đều, kích thước nhỏ và phẳng sau tiến triển lan rộng ra xung quanh, để lại sẹo teo hoặc nhạt màu ở giữa. Sau một thời gian tổn thương trở nên dày, xuất hiện các nốt, cục, loét, chảy máu. Một đặc điểm nổi bật của ung thư tế bào hắc tố là hiện tượng màu sắc không đồng nhất với sự xen kẽ giữa màu nâu và màu đen hay màu xám ở tổn thương.

Thể này cần chẩn đoán phân biệt với nốt ruồi không điển hình (Atypical naevus). Những nốt ruồi không điển hình thường xuất hiện từ bé hay trong quá trình phát triển của cơ thể, kích thước nhỏ, giới hạn không rõ với da lành. Điều đặc biệt là chúng có thể hư biến thành ung thư tế bào hắc tố. Chúng ta có thể xác định mức độ lành tính hay đã hư biến của thương tổn bằng dermatoscope (một dụng cụ có độ phóng đại trên 10 lần, giúp cho chúng ta có thể phát hiện ung thư tế bào hắc tố giai đoạn sớm dựa vào những thay đổi về sắc tố của tồn thương). Trường hợp nghi ngờ, nên phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ tổn thương và làm xét nghiệm mô bệnh học để xác định.

Ngoài ra, trên lâm sàng, ung thư tế bào hắc tố cũng dễ nhầm với hạt cơm da dầu, tăng sắc tố do ánh nắng, hay ung thư tế bào gai nhiễm sắc tố.

3.2. Ung thư tế bào hắc tố thể u

Thể này thường hay gặp ở lứa tuổi 50 đến 60 tuổi, nam gặp nhiều hơn nữ.

Thương tổn là những u nhỏ, nồi cao trên mặt da, hình vòm đôi khi có cuống, thường có màu nâu đỏ. Thương tổn có thế loét, hay dễ chảy máu, hay táng sắc tố rải rác trên bề mặt. Thương tổn hay gặp ở thân mình, tuy nhiên có thể gặp ở bất kỳ vị trí nào trên cơ thể. Bệnh tiến triển nhanh nên thường được chẩn đoán muộn hơn so với thể nông bề mặt và có tiên lượng xấu.

Chẩn đoán phân biệt với u máu, ung thư tế bào đáy thể tăng sắc tố, histiocytoma hay u máu xơ hóa.3.3. Ung thư tế bào hắc tố của Dubreuilh

Loại ung thư này thường gặp ở người nhiều tuổi. Thương tổn là các dát màu nâu hay đen hình dạng không đều. Các dát này thường xuất hiện ở vùng da hở như má, thái dương và trán. Thương tồn tiến triển lâu nhiều tháng, nhiều năm có xu hướng lan rộng ra xung quanh đồi khi lành ở giữa, sau đó xuất hiện u ở trên tổn thương, báo hiệu

sự xâm lấn sâu xuống phía dưới.

Ở giai đoạn sớm, cần chẩn đoán phân biệt với dày sừng da dầu, dày sừng do ánh nắng. Cả hai loại tổn thương này đều rất nông trên bề mặt, tăng sắc tố đồng đều, mầu nâu xám, không bóng.

3.4. Các thể khác của ung thư tế bào hắc tố3.4.1. Thể đầu chi

Loại ung thư này chiếm khoảng 10% ung thư tế bào hắc tố ở người da trắng và chiếm trên 50% các trường hợp ung thư tế bào hắc tố ở châu Á.

Thương tổn thường gặp ở lòng bàn tay, bàn chân, đặc biệt là ở gót chân (chiếm 50% ung thư tế bào hắc tố ở bàn chân). Khởi đầu là một vùng da tăng sắc tố màu sắc không đồng nhất, màu nâu xen kẽ màu đen xám, giới hạn khồng rõ ràng, không đau, không ngứa. Thương tổn lan rộng ra xung quanh, có thể loét hay xuất hiện các khối u nổi cao.

Một số tác giả cho rằng nốt ruồi ở một số vị trí dễ sang chấn như bàn tay, bàn chân, hay vùng cạo râu dễ bị hư biến thành ung thư tế bào hắc tố và khuyên nên cắt bỏ sớm những nốt ruồi ở những vị trí này.

Cần chẩn đoán phân biệt loại ung thư này với xuất huyết do sang chấn nhất là ở gót chân, cần dựa vào tiền sử sang chấn và tiến triển của tổn thương. Đối với xuất huyết, tổn thương lúc đầu thường thẫm màu sau đó chuyển sang màu xanh và vàng rồi khỏi trong thòi gian ngắn khoảng 1 tuần đến 10 ngày.

Ung thư tế bào hắc tố dưới móng biểu hiện bàng các thương tổn tăng sắc tố không đều, chiếm một phần hay toài} bộ nền của móng. Thương tổn có thề lan sang phần da phủ móng (dấu hiệu Hutchinson). Đây là dấu hiệu rất quan trọng giúp cho chẩn đoán.

Ung thư tế bào hắc tố dưới móng thường được chẩn đoán muộn vì dễ nhầm với các bệnh khác như nốt ruồi dưới móng, xuất huyết do sang chấn, viêm quanh móng, nhiễm nấm, hạt cơm dưới móng. Do vậy, với bất kỳ một thương tổn táng sắc tố dưới móng, phải được khám kỹ, nhất là với những thương tổn lan hết chiều dài của móng.3.4.2. Thể niêm mạc

Ung thư tế bào hắc tố có thể thấy ở niêm mạc miệng, sinh dục, quanh hậu môn, nhưng hiếm gặp. Thương tổn thường là mảng da tăng sắc tố, tiến triển nhanh chóng lan ra xung quanh, nhưng cũng có thể phát triển rất chậm nhiều năm trước khi nổi cao trên mặt da. Đối với tất cả những thương tổn tăng sắc tố ở niêm mạc, cần làm sinh thiết mặc dù về mặt lâm sàng chưa có biểu hiện ác tính.3.4.3. Ung thư tế bào hắc tố có giảm sắc tố xung quanh tồn thương

Hiện tượng này đôi khi cũng xảy ra ở xung quanh một nốt ruồi (nốt ruồi Sutton hay halo naevus) và thường xảy ra vào giai đoạn đầu của bệnh.Trên hình ảnh mô bệnh học người ta thấy có sự thâm nhiễm nhiều bạch cầu và có thể đây là phản ứng của cơ thể chống lại các tế bào ung thư. Ý nghĩa của hiện tượng này chưa rõ, nhưng những bệnh nhân như vậy thường có tiên lượng tốt.3.4.4. Ung thư tế bào hắc tố phát triển từ nốt ruồi

Trên 50% các trường hợp ung thư tế bào hắc tố xuất hiện ở vùng da bình thường. Tuy nhiên, ung thư tế bào hắc tố có thể xuất phát từ những tổn thương sắc tố (nốt ruồi, bớt sắc tố bẩm sinh). Bệnh nhân càng có nhiều nốt ruồi không điển hình càng có nguy cơ hư biến thành ung thư tế bào hắc tố. Những bệnh nhân có nốt ruồi không điển hình mà không có tiền sử gia đình có người mắc ung thư tế bào hắc tố thì nguy cơ hư biến cao gấp 80 lần so với người bình thường và những người có các nốt ruồi không điển hình kết hợp với có tiền sử gia đình có người bị ung thư tế bào hắc tố thì nguy cơ này tăng lên từ 100 đến 400 lần. Do vậy, cần theo dõi sự tiến triển của các nốt ruồi. Trong trường hợp nốt ruồi có những thay đổi, cần phẫu thuật cắt bỏ và nên theo dõi 3 đến 6 tháng một lần. Trường hợp cần thiết có thể chụp ảnh để dễ so sánh.3.4.5. Ung thư tế bào hắc tố thứ phát

Khoảng 5% ung thư tế bào hắc tố là thương tổn thứ phát mà không thấy thương tổn nguyên phát. Thương tổn thường là một khối u đơn độc, không táng sắc tố (Achromic), khu trú dưới da hoặc trong da hay niêm mạc. Thương tồn này có thể là sự di căn từ u hắc tố ở các cơ quan phủ tạng, hoặc ở da đã thoái triển. Thực tế cho thấy rất nhiều trường hợp không xác định được thương tổn nguyên phát.

4. MÔ BỆNH HỌC

Nhìn chung, ung thư tế bào hắc tố trên tiêu bản nhuộm H&E có hình ảnh tăng sinh, thâm nhập của các tế bào hắc tố ở biểu bì và trung bì. Các tế bào chưa biệt hóa, nhân to, bắt màu đậm, có hiện tượng rối loạn phân bào, thâm nhiễm bạch cầu, tăng sinh mạch máu, có thể có loét.

Clark và cộng sự phân chia về mặt mô bệnh học ung thư tế bào hắc tố thành hai loại: ung thư tế bào hắc tố xâm lấn bề mặt và bề sâu. Ở giai đoạn lan tỏa bề mặt, chỉ có rất ít các tế bào ở trung bì mà chủ yếu ở biểu bì. Ngược lại ở giai đoạn phát triển theo chiều sâu, thì các tế bào hắc tố tập chung chủ yếu ở trung bì.

Trong một số trường hợp đặc biệt, các tế bào ung thư rải rác hay thành cụm ở lớp tế bào đáy và trung bì nông, đôi khi giống với hình ảnh của bệnh Paget, vì vậy một số tác giả còn gọi thể này là ung thư tế bào hắc tố dạng Paget.

Về mô bệnh học đôi khi khó chẩn đoán phân biệt giữa ung thư tế bào hắc tố với Halo naevus (nốt ruồi Sutton) và naevus spitz, cần phải kết hợp với lâm sàng trong chẩn đoán xác định.

Xét nghiệm hóa mô miễn dịch sừ dụng các kháng thể kháng PslOO, NK C3 hay HMB45 giúp chẩn đoán xác định bệnh.

Nhiều chỉ số mô bệnh học có giá trị trong tiên lượng bệnh. Chỉ số Clark đánh giá mức độ xâm lấn của tổ chức u ở các mức độ khác nhau, cụ thể:

– Xâm lấn ở biểu bì hay ung thư tại chỗ.

– Xâm lấn trung bì nông: chỉ có một vài tế bào ở nhú bì.

– Xâm lấn toàn bộ nhú bì.

– Xâm lấn trung bì sâu.

Hiện nay chỉ số Breslow về độ dày của thương tổn được đo từ lớp hạt của biểu bì đến phần sâu nhất của tồn thương nguyên phát, được coi là yếu tố quan trọng để đánh giá mức độ xâm lấn của tổ chức u và giúp cho việc tiên lượng bệnh:

Một số yếu tố khác như loét, thậm chí chỉ phát hiện trên mô bệnh học, tỉ lệ phân bào hay tỉ lệ thoái triển trong tổ chức u và sự có mặt của tế bào ung thư trong lòng mạch là những yếu tố có tiên lượng xấu.

“Ngoài ra, mức độ táng sinh các mạch máu cũng như bạch mạch trong tổ chức u và xung quanh tồ chức u cũng ảnh hưởng đến tiên lượng bệnh.

5. CHẨN ĐOÁN

Chẩn đoán xác định ung thư tế bào hắc tố cần dựa vào lâm sàng và mô bệnh học. Khi bệnh nhân có một tổn thương tăng sắc tố trên da, chúng ta có thể dựa vào hệ thống triệu chứng ABCDE của Hoa kỳ để xem xét thương tổn này đã bị ung thư chưa, cụ thể:

– Tổn thương không đối xứng (A- asymetry).

– Bờ không đồng đều (B -irregular border).

– Màu không đều (C -irregular color).

– Kích thước trến 1 cm (D-Diameter).

– Tiến triển nhanh trong thòi gian 6 tháng trở lại (E-Evolution).

Ngoài ra chúng ta có thể dựa vào bảng tiêu chuẩn của Glasgow gồm 7 tiêu chuẩn: 3 chính và 4 phụ.

Các tiêu chuẩn chính:

– Thay đổi kích thước

– Thay đổi hình dạng

– Thay đồi màu sắc

– Các tiêu chuẩn phụ

– Đường kích lớn hơn 7 mm

– Viêm

– Trợt hay chảy máu

– Ngứa hoặc thay đổi cảm giác.

Bất kỳ một tổn thương nào có một tiêu chuẩn chính ở người lớn thì cần phải phẫu thuật cắt bỏ, trường hợp có một tiêu chuẩn phụ thì có thể nghi ngờ.

Trên thực tế lâm sàng nếu có tổn thương nghi ngờ là ung thư tế bào hắc tố cần sinh thiết hay phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ tổn thương để làm mô bệnh học và hóa mô miễn dịch với các kháng nguyên đặc hiệu, cần lưu ý không nên sinh thiết bằng punch vì có nguy cơ làm di căn các tế bào ung thư.

– Quang tuyến trị liệu được chỉ định trong những trường hợp có di căn hoặc không có chỉ định phẫu thuật. 50 % các hạch di căn hay u ở tổ chức mềm có đáp ứng tốt với quang tuyến. Tuy nhiên, chỉ 30% các u di căn ở não đáp ứng với quang tuyến. Điều trị quang tuyến liều thấp kết hợp với corticosteroides liều thấp có tác dụng tốt để giảm đau đối với những ung thư đã di căn như ở não, xương.

– Hóa trị liệu: có nhiều hóa chất có thể chỉ định trong ung thư tế bào hắc tố. Tùy theo từng bệnh nhân, có thể dùng đơn hóa trị liệu hay phối họp nhiều thuốc để điều trị. Dacarbazin với liều 700mg/m 2 /ngày trong thời gian 1 đến 5 ngày sau đó ngừng điều trị. Tháng tiếp theo lại lặp lại như vậy. Ngoài ra có thể sử dụng các thuốc khác như Fotemustine với liều 100mg/m 2 vào các ngày 1,8, 15, 50 sau đó 3 tuần tiêm 1 lần.

– Điều trị miễn dịch: interferon alpha 2a đã được sử dụng với liều 3 triệu đom vị tiêm dưới da, 3 lần trong một tuần, trong thòi gian 18 tháng, cho kết quả khả quan trong một số nghiên cứu. Tuy nhiên, một nghiên cứu gần đây của Tổ chức Y tế thế giới cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm bệnh nhân được điều trị bằng interferon và nhóm chứng. Vaccin tiêm phòng ung thư tế bào hắc tố hiện nay vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm.

Sau khi phẫu thuật cắt bỏ, bệnh nhân cần được theo dõi 3 tháng một lần trong thời gian 3 đến 5 năm. cần lưu ý hiện tượng tái phát tại chỗ, hay di căn hạch và các cơ quan khác, đặc biệt ở phổi và não.

Tin bài: PGS.TS Nguyễn Hữu SáuĐăng tin: Phòng CNTT&GDYT TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Dillman RO, Vandermolen LA, Barth NM, Bransford KJ. 1996. Malignant melanoma and pregnancy ten questions. West J Med; 164(2): 156-61

2. MacKie RM, Bufalino R, Morabìto A, Sutherland c, Cascỉnellỉ N. 1991. Lack of effect of pregnancy on outcome of melanoma. For The World Health Organisation Melanoma Programme. Lancet 16;337(8742):653-5

3. Soheil S. Dadras, et al. 2003.Tumour lymphagiogenesis, a novel prognostic indicator for cutaneous melanoma metastasis and survival. Am J, Pathol, 162: 1951- 1960.

4. Dadras ss, Paul T, Bertoncini J, Brown LF, Muzikansky A, Jackson DG, et al, 2003. Tumor lymphangiogenesis: a novel prognostic indicator for cutaneous melanoma metastasis and survival. Am JPathol;162(6): 1951-60.

5. MF. Avril et al, 1996. Diagnostic Clinique du Meslanome; OMS programme melanome,.

6. Rona M.Mackie, 2008. Texbook of dermatology; Melancocytic naevi and malignant melanoma, chapter 38, 1717-52.

7. Sandra c. Paeck et al. 2006, Cutaneauos melanoma; Fitzpatrick’s Dermatology in general medecine; seventh edition;. 1134- 57.

J.J Grob et al, 2008. Meslanome cutanes. Therapeutique dermatologique; 2001, 527-23.