Xét Nghiệm Ung Thư Bạch Huyết / Top 3 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Sept.edu.vn

Ung Thư Bạch Huyết (Lymphoma)

Hạch bạch huyết hay hạch lympho là một trong vô số các cấu trúc trơn, hình bầu dục dẹp, rải rác dọc theo các mạch bạch huyết, là một phần của hệ bạch huyết. Các hạch bạch huyết có mặt ở khắp cơ thể, tập trung nhiều ở một số vùng như cổ, nách, bẹn. Hạch bạch huyết đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động của hệ miễn dịch. Chúng chứa các tế bào bạch huyết và có chức năng làm bộ lọc hoặc bẫy giữ lại các phần tử ngoại lai, có thể bị viêm và sưng khi làm nhiệm vụ này.

Ung thư bạch huyết là một loại ung thư xuất phát từ các tế bào của hệ miễn dịch được gọi là các tế bào bạch huyết (tế bào lympho). Giống như các loại ung thư khác, ung thư bạch huyết xảy ra khi các tế bào bạch huyết rơi vào tình trạng phát triển và sinh sản mất kiểm soát.

Các tế bào lympho là các bạch cầu di chuyển khắp nơi trong cơ thể bên trong một loại dịch được gọi là dịch bạch huyết. Chúng được vận chuyển bởi một mạng lưới các mạch tạo thành hệ bạch huyết, là một phần của hệ miễn dịch. Hệ bạch huyết, có nhiệm vụ chống lại nhiễm trùng hoặc bất cứ tác nhân nào đe dọa cơ thể, còn bao gồm các hạch bạch huyết nằm khắp nơi trong cơ thể để lọc dịch bạch huyết chảy qua chúng. Các hạch bạch huyết sẽ sưng nề và đau khi có một lượng lớn các vi sinh vật tập trung bên trong, và đó là dấu hiệu của tình trạng nhiễm trùng cục bộ.

Có 2 loại tế bào lympho chính: tế bào B và tế bào T. Cả 2 loại đều được thiết kế để nhận biết và tiêu diệt các tác nhân nhiễm trùng và các tế bào bất thường. Tế bào B sản xuất ra các protein đi khắp nơi trong cơ thể, dính vào các vi sinh vật gây nhiễm và các tế bào bất thường rồi báo động cho hệ miễn dịch biết rằng tác nhân gây bệnh này cần phải được tiêu diệt. Các tế bào T mới thật sự tiêu diệt trực tiếp các tác nhân gây bệnh và thực hiện chức năng điều hòa hệ miễn dịch khi chúng đang ở trong tình trạng kém hoạt động hay hoạt động quá mức.

Ung thư bạch huyết xảy ra khi tế bào B hoặc T trở nên tăng trưởng và sinh sản mất kiểm soát. Các tế bào lympho bất thường tập trung trong một hoặc nhiều hạch bạch huyết hoặc trong các mô bạch huyết như lách hay amidan để rồi cuối cùng tạo thành một khối gồm nhiều tế bào được gọi là khối u. Các khối u lớn lên và xâm lấn vào khu vực của các mô và các cơ quan xung quanh, chiếm đoạt oxy và chất dinh dưỡng của chúng.

Nếu các tế bào lympho di chuyển từ hạch bạch huyết này sang hạch bạch huyết khác hoặc sang những cơ quan khác, ta gọi đây là hiện tượng ung thư di căn. Ung thư bạch huyết tiến triển ra bên ngoài mô bạch huyết được gọi là ung thư bạch huyết ngoài hạch.

Mỗi năm tại Hoa Kỳ có khoảng 54.000 người được chẩn đoán bị ung thư bạch huyết không-Hodgkin, và 7.000 người được chẩn đoán bị ung thư bạch huyết Hodgkin. Nó là loại ung thư máu thường gặp nhất tại Hoa Kỳ. Tại Châu Âu, người ta phát hiện ra khoảng 50.000 trường hợp ung thư bạch huyết không-Hodgkin mỗi năm.

Phân loại ung thư bạch huyết

Có 2 loại ung thư bạch huyết: ung thư bạch huyết Hodgkin (còn được gọi là bệnh Hodgkin) và không-Hodgkin. Cả hai loại này có thể xảy ra ở những vị trí giống nhau và gây ra những triệu chứng tương tự nhau. Sự khác biệt của chúng chỉ nhận biết được qua kính hiển vi.

Ung thư bạch huyết Hodgkin xuất phát từ một dòng tế bào B bất thường đặc hiệu. Có 5 loại ung thư bạch huyết Hodgkin. Ung thư bạch huyết không-Hodgkin có thể xuất phát từ các tế bào B hoặc T bất thường và có khoảng 30 loại được phân biệt bằng những chất đánh dấu di truyền đặc hiệu. Do ung thư bạch huyết có rất nhiều nhóm nhỏ nên việc phân loại chúng rất phức tạp và phải dựa vào những đặc điểm vi thể, di truyền, và hình dạng phân tử.

Mặc dù có vài loại ung thư bạch huyết không-Hodgkin có vẻ tương tự nhau nhưng chúng có cơ chế khác nhau và đáp ứng khác nhau với điều trị. Các thể ung thư bạch huyết Hodgkin được phân biệt dựa trên những khác biệt vi thể quan sát được qua kính hiển vi cũng như mức độ lan rộng của bệnh.

Nguyên nhân ung thư bạch huyết

Về cơ bản thì ung thư là kết quả của các tế bào phát triển không kiểm soát và không chết đi. Các tế bào bình thường trong cơ thể tuân theo một con đường bất di bất dịch là: lớn lên, phân chia và chết đi. Sự chết đi của tế bào theo chương trình được gọi là apoptosis, và nếu như quá trình này bị phá hủy thì ung thư sẽ xảy ra. Các nhà khoa học không biết chính xác nguyên nhân gây ra ung thư bạch huyết nhưng họ đã xác định được một số yếu tố nguy cơ.

Di truyền: Ung thư bạch huyết có thể là kết quả của di truyền từ những thành viên trong gia đình. Một người được sinh ra với những đột biến gen nhất định hoặc một chỗ sai sót trong gen làm cho người này về mặt thống kê dễ phát triển thành ung thư sau này.

Các yếu tố khác: Khi chúng ta càng lớn tuổi thì những đột biến có thể gây ung thư trên DNA càng xuất hiện nhiều hơn. Nguy cơ bị ung thư bạch huyết không-Hodgkin gia tăng khi lớn tuổi và ung thư bạch huyết Hodgkin thường gặp nhất ở độ tuổi từ 16-34 và từ 55 tuổi trở lên. Ngoài ra, những bệnh khác có thể làm gia tăng tỷ lệ bị ung thư bạch huyết bao gồm: nhiễm HIV, nhiễm virus tế bào T type 1 ở người (HTLV-1: human T-lymphocytic virus type 1), nhiễm Epstein-Barr virus, nhiễm Helicobacter pylory, hoặc virus viêm gan B hoặc C; các bệnh tự miễn (chẳng hạn như bệnh lupus); những bệnh cần phải được điều trị ức chế miễn dịch; và những bệnh gây suy giảm miễn dịch khác.

Triệu chứng ung thư bạch huyết

Các triệu chứng của ung thư khá khác nhau và tùy thuộc vào vị trí của ung thư, nơi mà nó lan rộng, và độ lớn của khối u. Ung thư bạch huyết thường có biểu hiện đầu tiên là cảm thấy có những chỗ sưng nề ở cổ, nách, hoặc bẹn. Ngoài ra, có thể thấy những vị trí sưng nề khác ở nơi các hạch bạch huyết xuất hiện, chẳng hạn như ở lách. Thông thường, các hạch bạch huyết lớn có thể xâm lấn khu vực các mạch máu, dây thần kinh, hoặc dạ dày, làm cho bệnh nhân bị sưng nề tay, chân, tê ngứa, hoặc cảm thấy đầy bụng.

Ung thư bạch huyết còn có các triệu chứng không đặc hiệu, chẳng hạn như sốt, lạnh run, sụt cân không rõ nguyên nhân, đổ mồ hôi đêm, lơ mơ, và ngứa ngáy.

Chẩn đoán và phân độ ung thư bạch huyết

Để chẩn đoán bệnh ung thư bạch huyết, các bác sĩ sẽ cần phải khám thực thể cũng như được cung cấp một bệnh sử cá nhân và gia đình đầy đủ rồi sau đó sẽ xem xét các kết quả của một số loại xét nghiệm.

Xét nghiệm máu sẽ được dùng để kiểm tra các tế bào máu, chức năng của thận và gan. Bác sĩ cũng có thể khảo sát một chất hóa học có tên là Lactase Hydrogenase (LDH), khi nồng độ của chất này cao thường là dấu hiệu gợi ý của bệnh ung thư bạch huyết không-Hodgkin thể xâm lấn.

Một số kỹ thuật hình ảnh có thể được sử dụng để tìm sự hiện diện của ung thư và mức độ lan rộng của chúng. Một số kỹ thuật thường dùng bao gồm:

X quang

CT scan

Cộng hưởng từ

Chụp mạch bạch huyết (bạch huyết đồ).

Chụp bằng galli.

PET scan.

Các bác sĩ còn có thể kiểm tra tủy xương để xem ung thư bạch huyết có ảnh hưởng đến tủy xương hay không. Các mẫu tủy xương thường được lấy từ xương chậu để tìm sự hiện diện của các tế bào B hoặc T bất thường.

Cách duy nhất có thể chẩn đoán được ung thư là lấy đi một mẫu nhỏ của khối u và xem xét chúng dưới kính hiển vi bằng một thủ thuật được gọi là sinh thiết. Các bác sĩ sẽ thu thập mẫu bằng cách đâm kim qua da, phẫu thuật, hoặc nội soi. Nhà giải phẫu bệnh học sẽ khảo sát những mẫu lấy được dưới kính hiển vi để xác định xem ung thư có hiện diện hay không.

Sau khi chẩn đoán được thiết lập, các bác sĩ sẽ phân tích mẫu mô và các kết quả xét nghiệm để xem thử ung thư đã lan truyền đến đâu và xác định giai đoạn của ung thư. Giai đoạn ung thư giúp các bac sĩ biết những lựa chọn điều trị nào là thích hợp và nó còn nói lên tiên lượng của bệnh nhân.

Cách phân loại thường gặp và đơn giản của ung thư bạch huyết Hodgkin là xem nó lớn (tiên lượng xấu) hay nhỏ (tiên lượng tốt hơn). Loại không-Hodgkin được phân loại dựa theo tính chất vi thể, vị trí trong cơ thể, và những tính chất gen và phân tử. Nó thường được chia ra làm 3 cấp độ. Cấp độ thấp là các khối ung thư bạch huyết phát triển chậm và thường không cần phải điều trị ngay lập tức. Cấp độ trung bình là khi các khối ung thư phát triển nhanh và cần phải điều trị ngay lập tức. Chúng thường có thể trị khỏi được. Còn cấp độ cao là khi các khối u lớn nhanh và có tính xâm lấn, và cần phải được điều trị ngay lập tức và điều trị tích cực, chúng thường không còn trị khỏi được nữa.

Ung thư bạch huyết Hodgkin và không-Hodgkin có cùng một hệ thống phân độ để diễn tả mức độ lan tràn của bệnh:

Giai đoạn I hoặc bệnh giai đoạn sớm là khi ung thư bạch huyết xuất hiện ở một vùng hạch bạch huyết đơn độc hoặc chỉ có ở một cơ quan đơn độc ngoài hạch bạch huyết.

Giai đoạn II hoặc bệnh tiến triển cục bộ là khi ung thư bạch huyết xuất hiện ở từ hai vùng hạch bạch huyết trở lên ở cùng một phía của cơ hoành hoặc một vùng hạch bạch huyết và mô hoặc cơ quan kế cận.

Giai đoạn III hoặc bệnh tiến triển là khi ung thư bạch huyết ảnh hưởng đến từ hai hạch lympho trở lên hoặc một hạch và một cơ quan ở hai phía đối diện của cơ thể.

Giai đoạn IV hoặc bệnh lan rộng là khi ung thư bạch huyết lan đến lách, tủy xương, xương, hoặc hệ thần kinh trung ương.

Cả 2 loại ung thư bạch huyết còn được phân loại ra thành: A là không có những triệu chứng như sốt và sụt cân, B là có những triệu chứng trên, hoặc E để chỉ khối u đã xâm lấn trực tiếp từ hạch bạch huyết sang một cơ quan nào đó.

Điều trị ung thư bạch huyết

Điều trị tùy thuộc vào loại ung thư, phân độ của ung thư (mức độ lan tràn của nó), tuổi tác, tình trạng sức khỏe, đã từng được điều trị trước đó chưa, và những đặc điểm cá nhân kèm theo. Điều trị ung thư bạch huyết thường nhằm mục tiêu làm bệnh thuyên giảm hoàn toàn, là tình trạng các tế bào ung thư bạch huyết trong cơ thể có thể vẫn còn nhưng không phát hiện ra được và không gây ra triệu chứng gì. Những phương pháp điều trị ung thư bạch huyết thường được dùng bao gồm hóa trị, xạ trị, và liệu pháp sinh học.

Mục tiêu cuối cùng của việc điều trị ung thư bạch huyết là đạt được tình trạng thuyên giảm kéo dài. Nếu ung thư xuất hiện trở lại, tình trạng này được gọi là tái phát. Sau khi điều trị, bệnh nhân có thể sẽ thấy cải thiện (khối u thu nhỏ lại), bệnh ổn định (khối u vẫn giữ nguyên kích thước cũ), tiến triển (bệnh xấu đi), hoặc khó trị (khối u đề kháng với điều trị).

Hóa trị

Hóa trị là cách dùng các hóa chất ngăn cản quá trình phân chia của tế bào – tấn công protein hoặc DNA – làm cho các tế bào tự chết đi. Cách trị liệu này nhắm đến bất kỳ tế bào nào phân chia nhanh chóng (không nhất thiết chỉ có các tế bào ung thư), tuy nhiên các tế bào khỏe mạnh thường có thể tự phục hồi sau khi bị tổn thương trong khi đó các tế bào ung thư thì không thể. Hóa trị thường được dùng để điều trị những loại ung thư đã di căn do những loại thuốc này có thể di chuyển đến khắp cơ thể. Điều trị được thực hiện theo chu kỳ, do đó cơ thể có thời gian để phục hồi giữa các đợt điều trị. Tuy nhiên, vẫn còn một số tác dụng phụ có thể gặp bao gồm: rụng lông tóc, buồn nôn, mệt mỏi, và nôn ói. Các biện pháp điều trị phối hợp thường là kết hợp nhiều cách hóa trị khác nhau hoặc phối hợp giữa hóa trị với những phương pháp điều trị khác.

Xạ trị

Xạ trị tiêu diệt ung thư bằng các hướng chùm tia năng lượng cao đến các tế bào ung thư để gây ra những tổn thương trên các phân tử tào thành các tế bào ung thư và làm cho chúng tự chết đi. Xạ trị sử dung tia gamma năng lượng cao được phát ra từ những kim loại như radium hoặc tia X năng lượng cao được tạo thành từ máy. Xạ trị có thể được sử dụng một mình để thu nhỏ khối u lại hoặc để tiêu diệt các tế bào ung thư, và nó còn được dùng phối hợp với những phương pháp điều trị ung thư khác.

Các tác dụng phụ của hóa trị bao gồm những thay đổi nhẹ trên da tương tự như cháy nắng hoặc rám nắng, buồn nôn, nôn, tiêu chảy, và mệt mỏi. Các bệnh nhân có khuynh hướng ăn mất ngon, khó giữ được cân nặng cũ, nhưng hầu hết các tác dụng phụ thường sẽ biến mất vài tuần sau khi kết thúc điều trị

Phòng ngừa ung thư bạch huyết

Vẫn chưa phát hiện ra cách nào để phòng ngừa bệnh ung thư bạch huyết. Tuy nhiên, các bác sĩ khuyên nên tránh những yếu tố nguy cơ đã được liệt kê ở phía trên và tránh nhiễm virus và mắc những loại bệnh làm ức chế hệ miễn dịch của cơ thể.

Ung Thư Và Hệ Bạch Huyết

(SCI Blog) – Hệ bạch huyết giúp bảo vệ cơ thể chúng ta khỏi các tế bào ung thư cũng như tiêu diệt các vi khuẩn, vi trùng gây hại. Các tế bào lympho, tuyến hạch, và dịch bạch huyết hoạt động song song cùng hệ tuần máu để lọc bỏ vi khuẩn cũng như giam giữ các tế bào ung thư để cản trở chúng xâm lấn vào các cơ quan khác. Tuy nhiên, các tế bào ung thư khi mắc kẹt trong các hạch bạch huyết đôi khi lại có thể tiếp tục phát triển và tạo nên ung thư thứ phát tại đó.

Hệ bạch huyết là gì?

Hệ bạch huyết là một hệ thống các ống mỏng cùng các hạch chạy khắp cơ thể. Những chiếc ống này được gọi là mạch bạch huyết. Hệ thống bạch huyết là một phần quan trọng của hệ thống miễn dịch của chúng ta trong vai trò:

chống lại vi khuẩn và nhiễm trùng

tiêu hủy các tế bào cũ hoặc bất thường, ví dụ như tế bào ung thư

Hệ bạch huyết hoạt động như thế nào?

Hệ bạch huyết hoạt động tương tự như hệ tuần hoàn máu. Các mạch bạch huyết phân nhánh thông qua tất cả các bộ phận của cơ thể như động mạch và tĩnh mạch. Tuy nhiên, các mạch bạch huyết lại mỏng hơn và chứa một chất lỏng không màu gọi là dịch bạch huyết.

Trong dịch bạch huyết có chứa một lượng lớn các loại tế bào bạch cầu được gọi là tế bào lympho. Những tế bào này chống lại nhiễm trùng và giúp tiêu hủy các tế bào bị hư hỏng hoặc bất thường.

Khi máu lưu thông khắp cơ thể, các chất lỏng rò rỉ từ các mạch máu sẽ đi vào các mô cơ thể để cung cấp dinh dưỡng đến các tế bào và thấm vào các mô cơ thể để tạo thành dịch mô. Các chất này sau đó sẽ lọc và lấy đi các chất thải, vi khuẩn, các tế bào bị hư hỏng cùng các tế bào ung thư nếu có trong các mô. Khi xong việc, chất lỏng này sẽ chảy vào các mạch bạch huyết.

Dịch bạch huyết sau đó sẽ đi qua các mạch vào các tuyến bạch huyết để lọc loại bỏ vi khuẩn và các tế bào bị hư hỏng.

Từ các tuyến hạch, dịch bạch huyết di chuyển vào các mạch bạch huyết lớn hơn để tới được mạch bạch huyết rất lớn ở cổ, gọi là ống ngực. Tại đây, các ống ngực sẽ giúp lọc sạch dịch bạch huyết để đưa trở lại hệ tuần hoàn máu.

Hạch bạch huyết

Hạch bạch huyết có hình dạng như một hạt đậu nhỏ, nằm rải rác ở nhiều khu vực trên cơ thể như dưới cánh tay, nách, háng, cổ, bụng và ngực.

Chúng ta có thể sờ thấy một vài hạch trên cơ thể, chẳng hạn như các hạch bạch huyết ở cổ.

Các hạch bạch huyết lọc dịch bạch huyết khi dịch này chảy qua. Quá trình này diễn ra khi tế bào B và tế bào T tấn công bất kì vi khuẩn hoặc virus nào chúng tìm thấy trong bạch huyết.

Khi các tế bào ung thư tách ra khỏi một khối u, chúng có thể bị mắc kẹt ở một hoặc nhiều hạch bạch huyết lân cận. Vì vậy, các bác sĩ thường kiểm tra các hạch bạch huyết xung quanh để đánh giá mức độ lan rộng của ung thư.

Nguyên nhân phổ biến nhất gây nên hiện tượng sưng hạch bạch huyết là nhiễm trùng, nhưng đôi khi các hạch bạch huyết cũng có thể bị sưng do ung thư.

Các cơ quan hệ bạch huyết khác

Hệ thống bạch huyết bao gồm một số cơ quan khác như lá lách, tuyến ức, amidan và hạnh nhân hầu (VA vòm họng).

Lá lách

Lá lách nằm dưới xương sườn trái trong cơ thể, bao gồm 2 loại mô chính là tủy lách đỏ và tủy lách trắng. Tủy lách đỏ lọc và tái tạo các tế bào hồng cầu bị tổn thương từ máu, còn tủy lách trắng chứa các tế bào lympho B và lympho T để chống lại nhiễm trùng cho cơ thể.

Tuyến ức

Tuyến ức là một tuyến nhỏ nằm ở dưới xương ngực, hỗ trợ sản xuất các tế bào bạch cầu để chống nhiễm trùng. Tuyến ức thường phát triển lớn nhất ở tuổi dậy thì và co lại ở tuổi trưởng thành.

Amidan và hạnh nhân hầu (VA vòm họng)

Amidan là 2 tuyến ở phía sau cổ họng. Hạnh nhân hầu, hay còn được gọi là VA vòm họng, là các tuyến ở phía sau mũi giáp với mặt sau của cổ họng. Cả 2 cơ quan này hỗ trợ bảo vệ lối vào hệ thống tiêu hóa và phổi khỏi vi khuẩn và virus.

Cập nhật ngày 30/03/2020Tham khảo nguồn: The lymphatic system and cancer Bản quyền nội dung thuộc về Cancer Research UK và quyền dịch thuật cấp cho Prof. Dr. Thích Minh Tâm

Ung Thư Hạch Bạch Huyết Hodgkin

Các phương thức điều trị có thể là một trong các cách sau: hóa trị, xạ trị, liệu pháp miễn dịch và ghép tế bàogốc. Thông thường, đó là sự kết hợp của hai phương thức. Điều này còn phụ thuộc vào loại lymphoma và các đặcđiểm tiên lượng khác nhau của lymphoma.

Hóa trị

Các thuốc hóa trị hay còn được biết đến là cytotoxics là phương pháp điều trị chính cho những người mới được chẩnđoán mắc Lymphoma Hodgkin. Nhìn chung, các loại thuốc này tiêu diệt các tế bào phân chia/phát triển nhanh chóng. Dođó, cytotoxics mang lại hiệu quả rất cao trong việc tiêu diệt các tế bào ung thư nhưng cũng tiêu diệt các tế bàobình thường phát triển nhanh trong cơ thể như nang lông và các tế bào tạo máu trong tủy xương. Các tác dụng này cóbiểu hiện rụng tóc và suy giảm tạm thời các tế bào máu (như hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu). Hóa trị cũng có thể đượckết hợp với liệu pháp kháng thể đơn dòng ở một số bệnh nhân mới được chẩn đoán.

Liệu pháp miễn dịch

Liệu pháp miễn dịch là phương thức điều trị sử dụng chính hệ miễn dịch của người bệnh, hoặc thuốc chế tạo từ cácthành phần của hệ miễn dịch, để chống lại bệnh. Có nhiều hình thức trị liệu miễn dịch. Trong trường hợp lymphomaHodgkin, các dạng chính là kháng thể đơn dòng nhắm vào một loại protein cụ thể trong tế bào ung thư lymphomaHodgkin, và mũi tiêm này được gọi là điểm kiểm soát ức chế. Các điều trị này hiệu quả khá cao trong việc tiêu diệtcác tế bào lymphoma Hodgkin nhưng thường sử dụng như phương pháp thay thế.

Cấy Ghép Tế Bào Gốc

Người bị lymphoma Hodgkin tái phát có thể nhận cấy ghép tế bào gốc, thường là biện pháp thay thế. Cấy ghép tế bàogốc tạo máu cho phép người bệnh nhận hóa trị, xạ trị liều cao, hoặc cả hai. Liều cao phá hủy các tế bào lymphoma vàcả các tế bào máu khỏe trong tủy xương. Sau đó, bệnh nhân nhận tế bào gốc tạo máu qua ống mềm đặt ở tĩnh mạch lớntại cổ hoặc vùng ngực. Các tế bào máu mới phát triển từ các tế bào gốc cấy ghép.

Cấy ghép tế bào gốc được thực hiện tại bệnh viện. Tế bào gốc có thể lấy từ của chính người bệnh hoặc từ người hiếntặng khỏe mạnh.

Liệu pháp xạ trị

Liệu pháp xạ trị sử dụng các tia năng lượng cao để tiêu diệt các tế bào lymphoma Hodgkin. Có thể thu nhỏ khối u vàgiúp kiểm soát cơn đau. Xạ trị hay sử dụng trong bước đầu của trị liệu đới với bệnh nhân có các khối hạch bạch huyếtlớn.

Phân Biệt Bệnh Bạch Cầu Và Ung Thư Bạch Huyết

Bệnh bạch cầu và ung thư bạch huyết là gì?

1. Bệnh bạch cầu là gì?

Bệnh bạch cầu và bệnh về các tế bào bạch cầu phân chia nhanh chóng mà không thoái hóa và chết đi theo qui luật, sự gia tăng nhanh về số lượng lấn át các tế bào hồng cầu.

Bệnh bạch cầu thường phát triển chậm và bạn có thể khó phát hiện những triệu chứng ngay lập tức, do đó nó thường khó được chuẩn đoán ở giai đoạn đầu. Qua thời gian những tế bào máu trắng tăng lên cùng với đó là sự suy giảm của số lượng máu đỏ trong cơ thể.

Bệnh bạch cầu có thể là cấp tính hoặc mãn tính. Trong đó bệnh bạch cầu cấp tính có thể phát triển và lây lan nhanh chóng. Tuy nhiên bệnh bạch cầu mãn tính lại phổ biến hơn và tăng trưởng chậm ở giai đoạn đầu. Dựa trên tốc độ tăng trưởng và nguồn gốc xuất phát các tế bào ung thư, người ta phân thành 4 loại chính:

Bệnh bạch cầu Myeloid cấp tính

Bệnh bạch cầu dòng tủy mãn tính

Bệnh bạch cầu Lymphocytic cấp tính

Bệnh bạch cầu Lymphocytic mãn tính

Bệnh ung thư huyết hay lymphoma (u lympho) là bệnh các tế bào bạch huyết phân chia nhanh chóng làm ảnh hưởng đến các hạch bạch huyết. Các loại u lympho được phân biệt dựa vào nguồn gốc của các tế bào ung thư.

Một số trường hợp thì bắt đầu trong hệ thống bạch huyết, một số trường hợp khác bắt nguồn trong các tế bào máu trắng. Loại ung thư này được gọi là các u lympho không Hodgkin. Chúng xảy ra khi tế bào B hoặc tế bào T trong các tế bào máu trắng trở nên bất thường.

Mặt khác u lympho Hodgkin là loại ung thư bắt nguồn từ hạch to. Sau đó nó lây lan đến các hạch bạch huyết khác và cuối cùng là các cơ quan khác, chẳng hạn như phổi. Tuy nhiên trường hợp mắc u lympho Hodgkin thường ít hơn so với u lympho không Hodgkin.

Triệu chứng của bệnh bạch cầu và ung thư bạch huyết

Triệu chứng giữa bệnh bạch cầu và ung thư bạch huyết (u lympho Hodgkin và u lympho không Hodgkin) có những điểm tương đồng và cũng có những điểm khác biệt.

1. Triệu chứng của bệnh bạch cầu

Dễ bị bầm tím

Thường xuyên chảy máu: chảy máu cam và chảy máu răng nướu thường xuyên

Mệt mỏi quá mức

Sốt và đổ mồ hôi đêm

Đau đầu

Dễ bị nhiễm trùng cơ thể

2. Triệu chứng của bệnh ung thư bạch huyết

Triệu chứng của ung thư bạch huyết Hodgkin:

Triệu chứng của ung thư bạch huyết không Hodgkin:

1. Nguồn gốc của bệnh bạch cầu

Với bệnh bạch cầu, tủy xương sản xuất quá nhiều tế bào máu trắng không tự nhiên chết đi như các tế bào máu lão hóa bình thường. Thay vào đó nó lại tiếp tục phân chia và lấn át các tế bào hồng cầu khỏe mạnh. Điều này gây nên những ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe của bạn vì cơ thể của bạn phụ thuộc vào các tế bào máu đỏ cung cấp oxy và vận chuyển chất dinh dưỡng. Bệnh bạch cầu cũng có thể bắt nguồn từ các hạch bạch huyết.

Ung thư bạch huyết thì lại thường bắt nguồn từ trong các hạch bạch huyết, là một trong những bộ phận quan trọng của hệ miễn dịch giúp cho cơ thể chống lại các yếu tố gây nhiễm trùng như virus và vi khuẩn. Một số loại ung thư bạch huyết có thể bị gây ra bởi sự lây lan của các tế bào máu trắng bất thường từ các bộ phận khác của cơ thể.

Các yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh

1. Yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh bạch cầu

Bệnh bạch cầu là bệnh ung thư phổ biến nhất ở trẻ em đặc biệt là bệnh bạch cầu cấp tính. Tuy nhiên người lớn cũng có thể mắc bệnh bạch cầu và thường là các trường hợp bệnh bạch cầu lymphocytic mãn tính. Một số trường hợp là bệnh bạch cầu cấp tính và bệnh bạch cầu tủy mãn tính. Có một số người sẽ có nguy cơ mắc bệnh cao hơn nếu có các yếu tố sau đây:

Một tiền sử gia đình mắc bệnh bạch cầu

Tiếp xúc với hóa chất

Hút thuốc

Rối loạn di truyền máu

Hóa trị hoặc xạ trị trước đó

U lympho Hodgkin thì phổ biến nhất ở những người có trong độ tuổi từ 15 – 40 và từ 55 tuổi trở lên. Còn u lympho Hodgkin thì có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi. Nhưng nó phổ biến nhất ở những người nằm trong độ tuổi từ 60 trở lên. Nó cũng hiếm xảy ra ở những trẻ em dưới 3 tuổi. Bên cạnh đó có một số yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh u lympho:

Đối với u lympho không Hodgkin: tiếp xúc với hóa chất nhất định, đã từng hóa trị hoặc xạ trị, hệ thống miễn dịch bị suy yếu, nhiễm Helicobacter pylori mãn tính.