Xét Nghiệm Máu Phát Hiện Ung Thư Đại Tràng / Top 11 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Sept.edu.vn

Xét Nghiệm Máu Phát Hiện Ung Thư Đại Tràng

Xét nghiệm máu phát hiện ung thư đại tràng. Xét nghiệm máu phát hiện ung thư đại tràng hiệu quả thường được bác sỹ chỉ định thực hiện vì sẽ có kết quả nhanh nhất và chính xác nhất để kịp thời chữa trị

Ung thư đại tràng là một căn bệnh thường gặp phổ biến ở nước ta, mỗi năm có đến khoảng vài chục nghìn người mắc bệnh. Hầu như những bệnh nhân khi phát hiện bệnh đều đã ở trong giai đoạn khó chữa trị và dẫn đến tử vong. Ung thư đại trực tràng khi được phát hiện sớm sẽ có khả năng điều trị bệnh cao hơn rất nhiều, bệnh nhân sau khi phát hiện bệnh có thể sống thêm vài chục năm. Nên thường xuyên đi xét nghiệm máu tổng quát định kỳ để có thể phát hiện bệnh sớm nhất

Tìm hiểu về bệnh ung thư đại tràng

Ung thư đại tràng thường hình thành ở các tế bào lành tính hoặc những khối u nhỏ, khi bị viêm nhiễm hoặc rối loạn chức năng có thể chuyển sang ác tính và trở thành ung thư đại tràng. Ung thư đại tràng thường xuất hiện ở vùng ruột già, phần cuối ống tiêu hóa.

Dấu hiệu thường gặp của những bệnh nhân ung thư đại tràng đó là:

Đi đại tiện bất thường có thể đi táo bón hoặc lỏng, phân lẫn máu hoặc các chất nhầy.

Thường xuyên bị đau bụng, bụng có cảm giác nóng không rõ nguyên nhân .

Chảy máu trực tràng.

Mệt mỏi, buồn nôn, chán ăn, chóng mặt, cơ thể bị suy nhược cơ thể,….

Xét nghiệm máu phát hiện ung thư đại tràng

Xét nghiệm máu là phương pháp hiệu quả để chuẩn đoán và phát hiện ung thư đại tràng. Xét nghiệm máu phát hiện ung thư đại tràng có hai loại đó là CA 19 – 9 và CEA.

Đây là loại xét nghiệm đo nồng độ glycolipid có trong máu. Giá trị ở những người bình thường là 39(U/ml) còn với những người mắc bệnh ung thư thì mức độ CA 19-9 tăng cao hơn.

Khi làm xét nghiệm nhận thấy giá trị cao hơn mức trung bình thì rất có thể bạn đã mắc ung thư hoặc mộ số loại bệnh về đường tiêu hóa như viêm ruột, viêm tụy, tắc mật,….

CEA là loại kháng nguyên ung thư biểu mô phôi có thể tìm thấy ở nhiều tế bào khác nhau trong cơ thể. Kháng nguyên CEA sẽ tăng nhiều ở một số loại bệnh như ung thư đại tràng hoặc những khối u xuất hiện trong đường tiêu hóa người sử dụng quá nhiều thuốc lá.

Ngoài ra chỉ số CEA còn biểu hiện ở một số loại bệnh như ung thư vú, dạ dày, ung thư buồng trứng, ung thư tuyến giáp, bệnh viêm tụy, viêm ruột, xơ gan,….

Thông qua những chỉ số trên trong xét nghiệm máu phát hiện ung thư đại tràng và kết hợp cùng một số phương pháp khác có thể xác định rằng bạn đã bị ung thư đại tràng hay chưa, từ đó có biện pháp điều trị hiệu quả.

Xét Nghiệm Máu Phát Hiện Ung Thư

Theo thống kê, mỗi năm nước ta có khoảng 94.000 người tử vong vì ung thư và có 150.000 trường hợp mắc căn bệnh này. Cũng như các nước trên thế giới, số người mắc bệnh ung thư ở Việt Nam đang có xu hướng ngày một tăng nhanh, từ 68.000 ca (năm 2000) lên 126.000 ca (năm 2010) và dự kiến sẽ vượt 190.000 ca (vào năm 2023). Bệnh gặp ở mọi tầng lớp xã hội, mọi lứa tuổi, mọi khu vực địa lý và mọi ngành nghề khác nhau.

Theo chúng tôi Nguyễn Bá Đức, Nguyên Giám đốc BV K Trung ương, Phó Chủ tịch Hội Ung thư Việt Nam, tuy ung thư là căn bệnh nguy hiểm nhưng có đến 50% số bệnh ung thư có thể điều trị khỏi nếu được phát hiện sớm và điều trị đúng cách.

“Ung thư là bệnh đa hình thái, có trên 200 loại ung thư khác nhau và ở tất cả các bộ phận của cơ thể. Mỗi loại ung thư có phương pháp phát hiện sớm khác nhau, cho nên nếu chỉ 1 xét nghiệm máu để phát hiện tất cả các loại ung thư khác nhau là không có. Không thể xét nghiệm máu để phát hiện ung thư vú, ung thư vòm họng, ung thư cổ tử cung….”- GS. Đức nhấn mạnh.

GS.TS Nguyễn Bá Đức.

Cũng theo GS. Đức, có một số ung thư xuất tiết một số rất ít vào trong máu (rất ít), nên khi xét nghiệm máu chỉ số này cao hơn một chút chúng ta mới chỉ nghi ngờ thôi chứ chưa khẳng định, sau đó cần phải xét nghiệm chuyên sâu hơn để khẳng định. Như chỉ số AFP của ung thư gan, xét nghiệm máu nếu chỉ số trên 400ng/ml, sau đó bác sĩ cần kết hợp siêu âm gan, chụp gan, sinh thiết rồi mới khẳng định. Hay với ung thư tuyến tiền liệt, xét nghiệm máu PSA trên 10 (bình thường chỉ 4-5) có thể nghi ngờ. Vì nhiều khi bệnh nhân viêm gan thì AFP cũng tăng hay phì đại lành tính tuyến tiền liệt cũng khiến PSA tăng.

“Nếu nói chỉ xét nghiệm máu để phát hiện ung thư thì không đúng, mỗi loại ung thư có phương pháp phát hiện sớm khác nhau. Khi xét nghiệm máu, người ta có thể phát hiện ra một số chất chỉ điểm như AFP, PSA, CEA… để phát hiện ung thư, tuy nhiên những chất chỉ điểm này không đặc hiệu. Người thầy thuốc chỉ định xét nghiệm máu trong một số trường hợp đặc biệt.

Với nam giới trên 50 tuổi, người ta khuyên xét nghiệm PSA định kỳ hàng năm, nếu chỉ số cao thì cần tiếp tục siêu âm, sinh thiết…. để chẩn đoán. Với phụ nữ, chị em có thể tự kiểm tra ngực sau khi sạch kinh, nếu phát hiện bất thường cần đi khám ngay. Cổ tử cung, phụ nữ nên đi khám phụ khoa định kỳ 1 năm 1 lần. Ở các nước, những việc sàng lọc này người dân rất có ý thức đi khám. Như ở Mỹ bảo hiểm y tế còn chi trả cho việc khám sàng lọc, tuy nhiên ở ta thì chưa làm được. Đối với những người có nguy cơ cao nên đi sàng lọc phát hiện sớm như người hút thuốc lá, bị bệnh đại tràng, viêm gan mạn tính, viêm dạ dày, người bị rối loạn kinh nguyệt, người béo phì… nên đi khám định kỳ.

“Nếu nói chỉ xét nghiệm máu để phát hiện ung thư thì không đúng, mỗi loại ung thư có phương pháp phát hiện sớm khác nhau”- GS. Đức cho biết.

Hiện nay, có nhiều phương pháp điều trị ung thư, trong đó có điều trị ung thư bằng ghép tế bào gốc đem lại nhiều lợi ích cho người bệnh. GS. Đức cho biết, điều trị ung thư bằng ghép tế bào gốc là một thành tựu khoa học rất mới, chỉ xuất hiện cách đây khoảng 10 năm trở lại đây. Người ta nghiên cứu thấy, tế bào gốc có ở một số bộ phận như trong máu ngoại vi, có rất nhiều tế bào, nhưng người ta có thể lấy được tế bào gốc. Tế bào gốc là gốc rễ của các tế bào sinh ra các tế bào khác. Có 2 loại tế bào gốc là tế bào gốc từ bên ngoài có thể thu thập ở máu cuống rốn hoặc lấy từ người khác. Bên trong có thể lấy tế bào gốc từ tủy xương hoặc máu ngoại vi. Trừ ung thư máu, khi điều trị sử dụng hóa chất, thuốc, phóng xạ để diệt các tế bào máu bị ung thư đi, các tế bào miễn dịch, tế bào ung thư, hồng cầu, bạch cầu bị tiêu diệt, người ta đưa tế bào gốc vào để phục hồi, sản sinh ra tế bào máu. Còn các loại ung thư khác, tế bào gốc không chữa được ung thư.

“Sau khi chữa ung thư bằng các phương pháp hóa chất, phóng xạ, cơ thể suy sụp, mất sức đề kháng, người ta đưa tế bào gốc vào để gây dựng lại, phục hồi lại các tế bào máu, hồng cầu, bạch cầu, tế bào miễn dịch. Nếu không chữa ung thư mà dùng tế bào gốc là một sai lầm vì phải diệt tế bào ung thư trước. Tôi khẳng định tế bào gốc không chữa được ung thư mà chỉ là để phục hồi sau điều trị ung thư”- GS. Đức nói rõ.

Theo Sức khỏe đời sống

Xét Nghiệm Máu Phát Hiện Sớm Ung Thư Gan

Kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh chỉ phát hiện ung thư khi đã xuất hiện các khối u, do vậy, nhu cầu tìm ra các chỉ dấu sinh hóa, miễn dịch (do tế bào ung thư tiết ra) giúp phát hiện ung thư sớm, trước khi xuất hiện khối u để chẩn đoán sớm là vấn đề cấp thiết trên toàn thế giới. Điều này sẽ giúp bệnh nhân được điều trị sớm, theo dõi tiến triển của khối u và nâng cao tỉ lệ sống sót của bệnh nhân.

Ung thư gan là loại ung thư phổ biến đứng hàng thứ 5 ở nam giới, và thứ 7 ở nữ giới với hơn nửa triệu trường hợp mắc bệnh mới được chẩn đoán mỗi năm trên toàn thế giới, đây là nguyên nhân đứng hàng thứ 3 gây nên các ca tử vong do ung thư trên toàn thế giới sau ung thư phổi và dạ dày. Vào năm 2010, ước tính khoảng 754.000 người tử vong do ung thư gan. Ung thư tế bào gan nguyên phát (hepatocellular carcinoma – HCC) là dạng ung thư gan phổ biến nhất – chiếm 80% trường hợp mắc ung thư gan. Trên 80% trong số các trường hợp ung thư gan được tìm thấy ở các quốc gia ở châu Á, và khu vực châu Phi cận Sahara.

Ung thư gan – những nguyên nhân

Tuy nhiên, kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh chỉ phát hiện ung thư khi đã xuất hiện các khối u. Do vậy, nhu cầu tìm ra các chỉ dấu sinh hóa, miễn dịch (do tế bào ung thư tiết ra) giúp phát hiện ung thư sớm, trước khi xuất hiện khối u để chẩn đoán sớm là vấn đề cấp thiết trên toàn thế giới. Điều này sẽ giúp bệnh nhân được điều trị sớm, theo dõi tiến triển của khối u và nâng cao tỉ lệ sống sót của bệnh nhân. Các chỉ dấu hiện nay được sử dụng tại Việt Nam gồm:

1. Alpha-fetoprotein (AFP)

Trong số các chất chỉ dấu ung thư gan hiện nay thì AFP đã được ứng dụng trong xét nghiệm tầm soát HCC (Hepatocellular carcinoma). AFP là glycoprotein có một chuỗi đơn, trọng lượng phân tử 70kDa và carbohydrat chiếm 4%. AFP được tổng hợp chính ở gan phôi thai và túi noãn hoàng, rồi vào dịch ối, đi qua rau thai và vào máu mẹ. Nồng độ trong huyết thanh của AFP nhanh chóng giảm xuống sau khi sinh và sự biểu hiện của nó bị ức chế ở người trưởng thành. Ở người lớn khỏe mạnh, nồng độ AFP huyết thanh là 0 – 7ng/mL. Nồng độ AFP huyết thanh 20ng/mL là giá trị cắt thường được sử dụng nhất để phân biệt bệnh nhân có và không có HCC. Xét nghiệm AFP có độ nhạy 41 – 65% và độ đặc hiệu 80 – 90% khi phát hiện HCC với giá trị cắt là 20ng/mL. AFP huyết thanh có sự tương quan thuận một cách có ý nghĩa với kích thước của khối u HCC và có thể được sử dụng như một chỉ dấu có giá trị để phát hiện HCC và đánh giá giai đoạn của bệnh. Theo khuyến cáo của Hội nghiên cứu gan châu Á – Thái Bình Dương (Asian Pacific Association for the Study of the Liver -APASL) và Mạng lưới ung thư quốc gia Mỹ (National Comprehensive Cancer Network – NCCN) thì bệnh nhân có nguy cơ cao bị HCC cần thực hiện kiểm tra AFP kết hợp siêu âm định kỳ 6 tháng.

Tuy nhiên, trên thực tế ở một số bệnh nhân không bị ung thư gan nhưng có nồng độ AFP tăng, ví dụ những bệnh nhân bị bệnh gan mạn, bệnh lý viêm gan, xơ gan, u quái tinh hoàn, phụ nữ có thai. Bên cạnh đó cũng có một số bệnh nhân ung thư gan nhưng AFP không tăng. Do vậy, các nhà khoa học đã tiếp tục nghiên cứu về các chỉ dấu chẩn đoán ung thư gan hiệu quả hơn và kết quả, các tác giả Nhật Bản đã phát hiện hai chỉ dấu giúp phát hiện thư gan sớm quan trọng khác là AFP L3 và DCP (Des-gamma-carboxy prothrombin), DCP còn được gọi là PIVKA II (protein induced by vitamin K absence or antagonists II).

2. AFP-L3

Là một đồng đẳng (Isoform) của AFP. Ba dạng AFP được phân biệt bởi mức độ fucosyl hóa (fucosylation) của chuỗi đường gắn với N-acetylglucosamine. Các dạng này có khả năng gắn vào Lens culinaris agglutinin (LCA) với các ái lực khác nhau. AFP-L1 là loại không gắn LCA, là dạng chủ yếu được thấy ở những người bị bệnh gan lành tính như viêm gan B mạn hoặc xơ gan AFP-L2 là có khả năng gắn LCA với ái lực vừa và là dạng chủ yếu được sản xuất bởi các khối u túi noãn hoàng. AFP-L3 được sản xuất bởi các tế bào gan ác tính, gắn vào LCA với ái lực cao và là dạng chủ yếu được thấy ở các bệnh nhân bị HCC. AFP-L3 được ghi nhận là tỉ lệ phần trăm của AFP-L3 so với tổng mức AFP. Giá trị cắt của AFP-L3 được xác định là 10% thì xét nghiệm có độ nhạy 56% và độ đặc hiệu 90% trong phát hiện HCC. Người có giá trị AFP-L3 cao hơn 10% thì tăng gấp 7 lần nguy cơ xuất hiện HCC trong vòng 21 tháng.

3. DCP hay PIVKA II

DCP (des-gamma carboxyprothrombin) là một dạng bất thường của prothrombin được tạo ra bởi sự thiếu vitamin K, một yếu tố đông máu được sản xuất bởi gan. DCP có thể được sản xuất bởi các khối u gan và mức độ thường tăng lên khi bị HCC. Nồng độ DCP bình thường là 0 – 7,5ng/ml. Với giá trị cắt là 25ng/mL thì xét nghiệm DCP có độ nhạy là 87% và độ đặc hiệu là 85% trong chẩn đoán HCC. Nhiều nghiên cứu cho thấy sự tăng DCP thường phản ảnh tình trạng của bệnh, kích thước khối u, sự xâm lấn tĩnh mạch cửa. Ngoài ra sau phẫu thuật cắt bỏ khối u hoặc sau điều trị ung thư gan bằng phương pháp khác, nồng độ DCP giảm nhanh. Sự tăng DCP trở lại sau điều trị thể hiện bệnh tái phát hoặc thất bại của điều trị.

Phần lớn các nghiên cứu bệnh hứng so sánh AFP với DCP trong chẩn đoán HCC cho thấy độ nhạy của DCP cao hơn AFP. Các nghiên cứu khẳng định sự kết hợp của DCP và AFP làm tăng rõ rệt độ nhạy và độ đặc hiệu trong chẩn đoán sớm HCC.

Hình chụp gan của một bệnh nhân xơ gan do rượu cho thấy một bướu ung thư điển hình (mũi tên trắng). A: hình chụp ở pha động mạch, bướu có màu sáng hơn tế bào xung quanh do sự tập trung máu động mạch vào bướu. B: hình chụp ở pha tĩnh mạch, bướu có màu nhạt hơn so với tế bào bình thường xung quanh. C: hình chụp ở pha chậm, tín hiệu của bướu hoàn toàn bị mất (vùng giảm tín hiệu). Đây là đặc điểm điển hình của một bướu ung thư gan

CHIA SẺ BÀI VIẾT

Xét Nghiệm Phát Hiện Sớm Bệnh Ung Thư Đại Trực Tràng Tại Bệnh Viện

Xét nghiệm phát hiện sớm bệnh ung thư đại trực tràng tại Bệnh viện

1. Giới thiệu: Ung thư đại-trực tràng là loại ung thư xuất hiện và phát triển tại đại tràng và trực tràng. Đây bệnh lý ung thư đường tiêu hóa phổ biến, có tỷ lệ mắc cao thứ ba và tỷ lệ tử vong cao thứ tư trong các bệnh ung thư thường gặp trên thế giới. Năm 2023, ở Mỹ ước tính có trên 134.000 ca ung thư đại-trực tràng mới mắc và trên 49.000 ca tử vong do ung thư đại-trực tràng. Tại Việt Nam, theo thống kê của Globocan năm 2012, ung thư đại-trực tràng có tỷ lệ mới mắc đứng hàng thứ năm và tỷ lệ tử vong đứng hàng thứ tư trong các bệnh ung thư. 

Các vị trí thường gặp của ung thư đại-trực tràng và tần suất tương ứng

2. Vai trò quan trọng của sàng lọc ung thư đại trực tràng: Sàng lọc là quá trình tìm kiếm phát hiện ung thư hoặc tiền ung thư khi người bệnh chưa có triệu chứng lâm sàng của bệnh. Sàng lọc thường xuyên ung thư đại-trực tràng là biện pháp quan trọng nhất trong chẩn đoán sớm và điều trị ung thư đại-trực tràng. Trong những năm gần đây đã có kỹ thuật phát hiện sớm các polyp ở đại-trực tràng trước khi chúng phát triển thành ung thư. Ngoài ra, việc sàng lọc thường xuyên cũng giúp phát hiện sớm ung thư đại-trực tràng khi khối u còn nhỏ, chưa xâm lấn, di căn, giúp việc điều trị sẽ dễ dàng hơn. Hiện nay tại Việt Nam chương trình sàng lọc ung thư đại-trực tràng cho cộng đồng còn chưa được thực hiện thường quy ở các địa phương nên việc phát hiện các khối u ở giai đoạn sớm còn hạn chế. Đa số bệnh nhân được phát hiện ở giai đoạn muộn, bệnh đã tiến triển. – Các yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được:      + Béo phì.      + Ít hoạt động thể lực.     + Chế độ ăn nhiều thịt đỏ (thịt bò, lợn, cừu) và thịt chế biến công nghiệp (xúc xích, thức ăn nhanh), thịt nấu ở nhiệt độ rất cao (rán, nướng).      + Hút thuốc.      + Uống nhiều rượu bia. – Các yếu tố nguy cơ không thể thay đổi được:      + Tuổi cao: tuổi càng cao càng có nguy cơ bị ung thư đại-trực tràng, đặc biệt nguy cơ tăng cao rõ rệt ≥ 50 tuổi.      + Tiền sử bị polyp hoặc ung thư đại-trực tràng.      + Tiền sử bị viêm đại-trực tràng.      + Tiền sử gia đình bị ung thư (Ông bà, bố mẹ và anh chị em ruột có người bị ung thư). 4. Các phương pháp xét nghiệm phát hiện ung thư đại-trực tràng sớm: 4.1 Xét nghiệm máu ẩn trong phân (fecal occult blood test): Do các mạch máu của polyp hoặc khối u đại-trực tràng thường dễ bị tổn thương khi phân đi qua, gây chảy máu vi thể, máu dính vào phân, hiếm khi nhìn thấy bằng mắt thường. Đây là xét nghiệm đơn giản, dễ làm với chi phí thấp. Máu trong phân có thể do nhiều nguyên nhân như polyp, ung thư, viêm loét đại trực tràng, trĩ… Do đó nếu kết quả xét nghiệm dương tính cần nội soi đại-trực tràng ống mềm để kiểm tra thêm. 4.2 Xét nghiệm hóa miễn dịch phân (fecal immunochemical test): Phát hiện hemoglobin protein là thành phần trong hồng cầu của người. Xét nghiệm này còn chưa phổ biến tại Việt Nam. 4.3 Xét nghiệm DNA trong phân (stool DNA test): phát hiện các bất thường DNA do đột biến gen của các tế bào ung thư đại-trực tràng. Xét nghiệm này chưa được tiến hành tại Việt Nam.         5. Dự phòng ung thư đại-trực tràng: Các chuyên gia của Hội Ung thư Mỹ về sàng lọc ung thư đại-trực tràng khuyến cáo nên làm xét nghiệm sàng lọc ung thư đại-trực tràng như sau:      + Xét nghiệm tìm máu tiềm ẩn trong phân 01 lần/ năm.      + Nếu kết quả các xét nghiệm này dương tính cần nội soi đại tràng kiểm tra. – Đối với người có nguy cơ cao bị ung thư đại-trực tràng:     + Những người này nên bắt đầu sàng lọc sớm trước 50 tuổi và tiến hành thường xuyên hơn 02 lần/ năm và nếu kết quả các xét nghiệm này dương tính cần nội soi đại tràng kiểm tra lại.     + Điều chỉnh chế độ ăn uống, sinh hoạt khoa học, hợp lý. 6. Các triệu chứng của ung thư đại – trực tràng: Ung thư đại-trực tràng giai đoạn sớm thường không có triệu chứng, do đó sàng lọc được khuyến cáo cho tất cả mọi người trên 50 tuổi.           Các triệu chứng của ung thư đại trực tràng bao gồm: – Sự thay đổi trong thói quen đại tiện như tiêu chảy, táo bón hoặc phân dẹt kéo dài trong một vài ngày. – Cảm giác buồn đi ngoài và đi ngoài không hết. – Đại tiện ra máu lẫn với phân, đại tiện phân màu đen. – Đau bụng quặn cơn, ậm ạch đầy hơi, bí trung tiện là các dấu hiệu của tắc ruột do u lớn làm bít tắc lòng đại tràng. – Chán ăn, khó tiêu, đầy trướng bụng trên vùng rốn, ăn không ngon. Tình trạng này kéo dài khiến cơ thể mệt mỏi, sút cân. – Rối loạn tiêu hóa, đi ngoài nhiều lần trong ngày. Phân có nhầy máu lẫn mùi. – Yếu, mệt mỏi thường xuyên. – Giảm cân không rõ nguyên nhân.             Hiện nay, tại Khoa Vi Sinh – Bệnh viện Việt Nam – Thuỵ Điển Uông Bí đã triển khai xét nghiệm hồng cầu trong phân theo phương pháp xét nghiệm miễn dịch sắc ký để chẩn đoán xuất huyết đường tiêu hóa và sàng lọc ung thư đại trực tràng, cho kết quả chính xác, nhanh chóng.  Vì vậy, nếu bạn hoặc người thân trên 50 tuổi hoặc có nguy cơ cao bị ung thư đại-trực tràng, đừng bỏ qua việc đến khám tại Bệnh viện để được tư vấn về sàng lọc, chẩn đoán và điều trị ung thư đại-trực tràng sớm.