Xạ Trị Ung Thư Niêm Mạc Tử Cung / Top 4 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Sept.edu.vn

Ung Thư Niêm Mạc Tử Cung

Ung thư biểu mô nội mạc tử cung là u biểu mô ác tính nguyên phát từ biểu mô nội mạc tử cung, thường biệt hóa dạng tuyến, nó có khả năng xâm nhập lớp cơ và lan đến những nơi xa.

2.1.1.Triệu chứng cơ năng

+ Ra máu âm đạo bất thường ở phụ nữ đã mãn kinh hoặc rong kinh, rong huyết ở phụ nữ tiền mãn kinh hoặc còn kinh. Triệu chứng này hay gặp khoảng (80%).

+ Chảy dịch hôi âm đạo có thể gặp khoảng 30% các người bệnh. Chảy dịch thường do nhiễm khuẩn, máu lẫn chất hoại tử tạo mùi hôi.

+ Đau vùng hạ vị thường xuất hiện muộn khi khối u đã lan tràn hoặc xâm lấn vào các bộ phận khác trong hố chậu, triệu chứng này có thể gặp khoảng 20,4%.

2.1.2. Triệu chứng thực thể

Các dấu hiệu thăm khám lâm sàng thường ít thấy. Đặt mỏ vịt chẩn đoán loại trừ trường hợp ra máu từ cổ tử cung. Nếu người bệnh đến ở giai đoạn muộn có thể thấy thân tử cung to, hoặc có xâm lấn cổ tử cung, âm đạo hay có dấu hiệu di căn xa.

Siêu âm: Siêu âm, đặc biệt là siêu âm đầu dò âm đạo được sử dụng đánh giá ban đầu với những người bệnh nghi ngờ ung thư nội mạc tử cung. Siêu âm cho phép nhận biết chiều dày bất thường của nội mạc tử cung, độ xâm lấn u.

Chụp buồng tử cung có thuốc cản quang: hiện bỏ ít dùng

Chụp MRI: cho phép đánh giá chẩn đoán u tại chỗ và các các mức độ xâm nhập u cũng như những tổn thương nghi ngờ di căn.

Sinh thiết nội mạc tử cung: sinh thiết nội mạc tử cung là yêu cầu bắt buộc trong chẩn đoán ung thư nội mạc tử cung. Nhằm đánh giá tổn thương là lành tính hay ác tính và độ mô học, típ mô bệnh học và ung thư nguyên phát ở nội mạc tử cung hay của cổ tử cung.

Soi buồng tử cung :soi buồng tử cung cho phép nhìn thấy tổn thương, xác định mức độ lan rộng bề mặt và định hướng cho sinh thiết đúng vị trí tổn thương để chẩn đoán mô bệnh học.

Chất chỉ điểm sinh học: các chất chỉ điểm như CA-125, TAG-72, CA 15-3, LSA… có thể tăng trong ung thư nội mạc tử cung. Tuy nhiên, các chất chỉ điểm này thường chỉ tăng trong giai đoạn muộn của bệnh.

Dựa vào chẩn đoán sinh thiết niêm mạc tử cung.

2.4. Phân loại thể, mức độ

Phân loại mô học các ung thư nội mạc của WHO 2003 hiện nay được sử dụng rộng rãi, gồm các loại sau:

Ung thư biểu mô tuyến dạng nội mạc tử cung (Endometrioid adenocarcinoma)

+ Biến thể với biệt hóa vảy (Variant with squamous differentiation) + Biến thể tuyến nhung mao (Villoglandular variant)

+ Biến thể chế tiết (Secretory variant)

+ Biến thể tế bào có lông (Ciliated cell variant)

Ung thư biểu mô tuyến nhầy (Mucinous adenocarcinoma)

Ung thư biểu mô tuyến thanh dịch (Serous adenocarcinoma)

Ung thư biểu mô tuyến tế bào sáng (Clear cell adenocarcinoma)

Ung thư biểu mô tuyến hỗn hợp (Mixed adenocarcinoma)

Ung thư biểu mô tế bào vảy (Squamous cell carcinoma)

Ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp (Transitional cell carcinoma)

Ung thư biểu mô tế bào nhỏ (Small cell carcinoma)

Ung thư biểu mô không biệt hóa (Undifferentiated carcinoma)

2.5. Chẩn đoán giai đoạn(FIGO 1988)

IU khu trú ở thân tử cung

IAU giới hạn ở nội mạc tử cung

IBU xâm lấn dưới ½ cơ tử cung

ICU xâm lấn trên ½ cơ tử cung

II:U xâm lấn tới cổ tử cung nhưng không lan ra khỏi

IIBXâm lấn tuyến cổ tử cung

III:Xâm lấn mô đệm cổ tử cung

IIIAU lan ra ngoài tử cung nhưng còn khu trú trong

IIIBU xâm lấn tới thanh mạc và/ hoặc phần phụ và /

IIIChoặc tế bào học dịch rửa phúc mạc dương tính

U lan tới khung chậu và/ hoặc hạch cạnh động

IVBU xâm lấn tới niêm mạc bàng quang và/ hoặc

niêm mạc đại tràng Sigma hoặc di căn xa

U xâm lấn niêm mạc bàng quang và/ hoặc niêm

Di căn xa bao gồm cả hạch ổ bụng và hạch bẹn

Trong các phương pháp điều trị ung thư nội mạc, phẫu thuật được coi là biện pháp ưu tiên hàng đầu. Có hai phương pháp phẫu thuật: Phẫu thuật mở bụng và phẫu thuật nội soi. Xạ trị là phương pháp điều trị hữu hiệu thứ hai trong điều trị ung thư nội mạc tử cung. Điều trị xạ trị, hóa trị và nội tiết cho các trường hợp giai đoạn muộn.

Chỉ định điều trị dựa vào phân loại bệnh theo FIGO:

+ Giai đoạn I: cắt tử cung hoàn toàn, phần phụ hai bên và lấy hạch chậu, hạch cạnh động mạch chủ. Điều trị tia xạ bổ trợ khi có các yếu tố tiên lượng xấu.(độ mô học 2 hoặc 3, hoặc có xâm lấn trên ½ chi ều sâu lớp cơ). Nếu ung thư niêm mạc tử cung đã lan xuống ống cổ tử cung và thâm nhiễm thì phải áp dụng phẫu thuật Wertheim.

+ Giai đoạn II: cắt tử cung hoàn toàn, hai phần phụ và lấy hạch. Sau 4-6 tuần tiến hành tia xạ hậu phẫu toàn khung chậu sau đó xạ áp sát. Trường hợp tổn thương tại cổ tử cung lớn thì tia xạ trước, sau 4 – 6 tuần mới tiến hành phẫu thuật.

Giai đoạn III: phẫu thuật và xạ trị vẫn là phương pháp điều trị chính. Nếu mổ được thì cắt tử cung hoàn toàn và xạ trị, nếu không thì xạ bằng kim radium đặt tại chỗ và hóa trị liệu hormon.

Giai đoạn IV: người bệnh ở giai đoạn muộn hoặc tái phát ở các vị trí xa, có thể điều trị tia xạ chống đau, chống chảy máu và chèn ép. Điều trị nội tiết và điều trị bằng progestatif.

Theo dõi định kỳ 3 tháng/lần trong 2 năm đầu, 6 tháng /lần trong 2 năm tiếp theo và sau đó mỗi năm một lần.

(Lượt đọc: 2676)

Bệnh Ung Thư Niêm Mạc Tử Cung

I. Đại cương

Ung thư niêm mạc tử cung là khối u ác tính từ niêm mạc tử cung. Ung thư niêm mạc tử cung hiếm hơn ung thư cổ tử cung (tỷ lệ 1/9).

Thường gặp ở phụ nữ đã mãn kinh (có khoảng 15% gặp ở phụ nữ chưa mãn kinh)

Không lan nhanh sang 2 bên dây chằng rộng, vì vậy tiên lượng tốt hơn ung thư cổ tử cung.

II. Yếu tố thuận lợi

Nổi bật là tuổi và cường Estrogen.

Tuổi là yếu tố quan trọng nhất, vì 90% ung thư nội mạc tử cung xuất hiện sau tuổi 50.

Cường Estrogen: Với giai đoạn ài cường Estrgen tương đối làm tăng nguy cơ mắc bệnh.

Rụng trứng không đều, dậy thì sớm, mãn kinh muộn, vô sinh tăng nguy cơ nhẹ.

Béo bệu làm tăng cường chuyển hóa Androstenedio ở tổ chức mỡ dưới da gây cường Estrogen là yếu tố nguy cơ quan trọng.

Viên thuốc tránh Estrogen trước và Progestin sau, dùng Estrogen thay thế sau mãn kinh đều làm tăng nguy cơ ung thư niêm mạc tử cung.

Tiền sử gia đình có người bị ung thư niêm mạc tử cung cũng là một yếu tố nguy cơ.

III. Giải phẫu bệnh 1. Đại thể

Thường khối u là một Polip sần sùi, có những nụ nhỏ dễ chảy máu.

Hình thái loét ít gặp hơn.

2. Vi thể

Đại bộ phận là ung thư biểu mô tuyến, một số ít trường hợp là ung thư biểu mô kép dẹt gai loại không biệt hoá.

III. Sự lan tràn

Theo bề mặt buồng tử cung hay sâu xuống lớp cơ tử cung hoặc buồng cổ tử cung.

Trong tiểu khungung thuwlan theo vòi trứng, bàng quang, đại tràng, phúc mạc tiểu khung.

Ung thư còn lan theo đường bạch huyết đến các hạch hố chậu và dọc ĐM chủ.

IV. Chẩn đoán 1. Cơ năng

Rong huyết sau mãn kinh, số lượng ít, máu đen. Ra máu bất thường, xuất hiện trong vài ngày rồi tự cầm. Có thể nhiều khí hư, màu hồng, lẫn mủ hoặc máu, mùi hôi.

Đau bụng: Do tử cung co bóp đẩy dịch hoặc máu trong tử cung, đau theo cơn. Khi ung thư lan tràn vào tổ chức dây chằng và các bộ phận khác ở hố chậu đau bụng nhiều.

2. Thực thể

Thấy máu trong buồng tử cung chảy ra. Giai đoạn đầu tử cung bình thường. Khi bệnh đã tiến triển tử cung to, mềm, không đau, di động. Phần phụ, cổ tử cung bình thường.

3. Cận lâm sàng

Siêu âm: Niêm mạc tử cung hình răng cưa.

Nạo buồng tử cung kiểm tra giải phẫu bệnh lý.

Chụp buồng tử cung: Chỉ thực hiện khi không ra máu và không có nhiễm trùng, tìm hình khuyết, buồng tử cung nham nhở, to ra, biến dạng.

Soi buồng tử cung tìm vùng niêm mạc tổn thương làm sinh thiết.

Quệt tế bào ở cùng đồ sau, kết quả chỉ (+) ở 60% trường hợp.

V. Phân giai đoạn

(Theo FIGO: Federation International de Genecologie et Obstetrique) 1988

Giai đoạn I: Khu trú ở tử cung.

Ia: Tổn thương ở niêm mạc tử cung

Ib. Tổn thương lan tràn vào cơ, dưới 50%

Ic: Tổn thương lan tràn vào cơ, trên 50%

Giai đoạn II: Lan xuống cổ tử cung.

IIa: Lan tràn vào niêm mạc và tuyến ở cổ tử cung.

IIb: Lan tràn vào lớp đệm ở cổ tử cung.

Giai đoạn III: Lan vào tiểu khung

IIIa: Lan tới lớp phúc mạc, vòi trứng.

IIIb: Lan vào âm đạo.

IIIc: Lan vào tiểu khung và các hạch cạnh động mạch chủ.

IV: Giai đoạn IV: Lan ra ngoài tử cung

IVa: Lan vào bàng quang hay ruột.

IVb: Di căn xa, kể cả hạch trong ổ bụng và hạch bẹn

V. Tiến triển

Thường tiến triển chậm. Do chảy máu rỉ rả kéo dài, bệnh nhân có thể thiếu máu.

VI. Điều trị 1. Phẫu thuật

Là phương pháp điều trị chủ yếu. Cắt tử cung hoàn toàn và 2 phần phụ qua đường bụng. Một số tác giả chủ trương cắt tử cung rộng và vét hết hạch.

2. Tia xạ

Thường tia xạ tại chỗ mỏm cắt (sau mổ) để dụ phòng tái phát khi ung thư lã lan vào cơ.

Tia xạ tiểu khung bằng Cobalt 60 khi lan tới hạch tiểu khung.

Tia xạ có thể hạn chế tái phát tại chỗ ở vùng tiểu khung, nhưng không kéo dài được cuộc sống cho người bệnh.

VII. Chỉ định điều trị theo giai đoạn

Giai đoạn 0: Cắt tử cung hoàn toàn và phần phụ.

Giai đoạn I: Tia xạ trên tử cung âm đạo, cắt tử cung hoàn toàn (có lấy hạch hoặc không tùy thể trạng bệnh nhân), tia xạ tiểu khung có di căn hạch, nội tiết liệu pháp (medroxy progesteron + taxmoxifen) nếu thuộc loại biệt hoá.

Nếu bệnh nhân không thể mổ được, tia xạ liều điều trị phối hợp thêm liệu pháp.

Nếu có nhiễm trùng thì mổ trước tia xạ sau.

Giai đoạn II: Phẫu thuật rộng, điều trị như ung thư cổ tử cung (Tia xạ, phẫu thuật Werthiem + lấy hạch, tia xạ hậu phẫu)

Giai đoạn III: Cắt bỏ tử cung giảm khối lượng ung thư, sau đó tia xạ. Nếu không mổ được tia xạ tại chỗ (Radium) và tia xạ cobalt) kết hợp với nội tiết liệu pháp.

Giai đoạn IV:Thường dùng nội tiết và điều trị triệu chứng, phẫu thuật ít được đề cập.

VIII. Điều trị dự phòng, theo dõi

Dùng Progestin nếu có quá sản niêm mạc tử cung, rối loạn rụng trứng 70% tái phát trong 2 năm đầu, 70% tái phát trong âm đạo và tiểu khung, 80% tái phát tiểu khung có di căn ở phổi, xương, bụng gan.

Theo dõi sau mổ 3 tháng một lần trong 3 năm đầu, 6 tháng một lần trong 2 năm sau, còn lại một năm 1 lần.

Theo dõi thể trạng chung, cân nặng, khám toàn thân, âm đạo tiểu khung.

Chụp phổi 1 năm 1 lần trong 5 năm đầu, siêu âm 3 tháng sau mổ, siêu âm tiểu khung hàng năm, Chụp vú 2 năm 1 lần. Định lượng CA 125 hàng năm.

Điều trị tốt đúng cách tỷ lệ sống 5 năm là: Giai đoạn I: 90%, Giai đoạn II: 75%, Giai đoạn III: 31%, Giai đoạn IV: 9,1%.

Ung Thư Niêm Mạc Tử Cung, Chẩn Đoán Và Điều Trị

Ung thư biểu mô nội mạc tử cung là u biểu mô ác tính nguyên phát từ biểu mô nội mạc tử cung, thường biệt hóa dạng tuyến, nó có khả năng xâm nhập lớp cơ và lan đến những nơi xa.

2.1.1. Triệuchứng cơ năng

+ Ra máu âm đạo bất thường ở phụ nữ đã mãn kinh hoặc rong kinh, rong huyết ở phụ nữ tiền mãn kinh hoặc còn kinh. Triệu chứng này hay gặp khoảng (80%).

+ Chảy dịch hôi âm đạo có thể gặp khoảng 30% các người bệnh. Chảy dịch thường do nhiễm khuẩn, máu lẫn chất hoại tử tạo mùi hôi.

+ Đau vùng hạ vị thường xuất hiện muộn khi khối u đã lan tràn hoặc xâm lấn vào các bộ phận khác trong hố chậu, triệu chứng này có thể gặp khoảng 20,4%.

2.1.2. Triệu chứng thực thể

Các dấu hiệu thăm khám lâm sàng thường ít thấy. Đặt mỏ vịt chẩn đoán loại trừ trường hợp ra máu từ cổ tử cung. Nếu người bệnh đến ở giai đoạn muộn có thể thấy thân tử cung to, hoặc có xâm lấn cổ tử cung, âm đạo hay có dấu hiệu di căn xa.

– Siêu âm: Siêu âm, đặc biệt là siêu âm đầu dò âm đạo được sử dụng đánh giá ban đầu với những người bệnh nghi ngờ ung thư nội mạc tử cung. Siêu âm cho phép nhận biết chiều dày bất thường của nội mạc tử cung, độ xâm lấn u.

– Chụp buồng tử cung có thuốc cản quang: hiện bỏ ít dùng

– Chụp MRI: cho phép đánh giá chẩn đoán u tại chỗ và các các mức độ xâm nhập u cũng như những tổn thương nghi ngờ di căn.

– Sinh thiết nội mạc tử cung: sinh thiết nội mạc tử cung là yêu cầu bắt buộc trong chẩn đoán ung thư nội mạc tử cung. Nhằm đánh giá tổn thương là lành tính hay ác tính và độ mô học, típ mô bệnh học và ung thư nguyên phát ở nội mạc tử cung hay của cổ tử cung.

– Soi buồng tử cung :soi buồng tử cung cho phép nhìn thấy tổn thương, xác định mức độ lan rộng bề mặt và định hướng cho sinh thiết đứng vị trí tổn thương để chẩn đoán mô bệnh học.

– Chất chỉ điểm sinh học: các chất chỉ điểm như CA-125, TAG-72, CA 15-3, LSA… có thể tăng trong ung thư nội mạc tử cung. Tuy nhiên, các chất chỉ điểm này thường chỉ tăng trong giai đoạn muộn của bệnh.

Dựa vào chẩn đoán sinh thiết niêm mạc tử cung.

Phân loại mô học các ung thư nội mạc của WHO 2003 hiện nay được sử dụng rộng rãi, gồm các loại sau:

– Ung thư biểu mô tuyến dạng nội mạc tử cung (Endometrioid adenocarcinoma)

+ Biến thể với biệt hóa vảy (Variant with squamous differentiation)

+ Biến thể tuyến nhung mao (Villoglandular variant)

+ Biến thể chế tiết (Secretory variant)

+ Biến thể tế bào có lông (Ciliated cell variant)

– Ung thư biểu mô tuyến nhầy (Mucinous adenocarcinoma)

– Ung thư biểu mô tuyến thanh dịch (Serous adenocarcinoma)

– Ung thư biểu mô tuyến tế bào sáng (Clear cell adenocarcinoma)

– Ung thư biểu mô tuyến hỗn hợp (Mixed adenocarcinoma)

– Ung thư biểu mô tế bào vảy (Squamous cell carcinoma)

– Ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp (Transitional cell carcinoma)

– Ung thư biểu mô tế bào nhỏ (Small cell carcinoma)

– Ung thư biểu mô không biệt hóa (Undifferentiated carcinoma)

Trong các phương pháp điều trị ung thư nội mạc, phẫu thuật được coi là biện pháp ưu tiên hàng đầu. Có hai phương pháp phẫu thuật: Phẫu thuật mở bụng và phẫu thuật nội soi. Xạ trị là phương pháp điều trị hữu hiệu thứ hai trong điều trị ung thư nội mạc tử cung. Điều trị xạ trị, hóa trị và nội tiết cho các trường hợp giai đoạn muộn.

Chỉ định điều trị dựa vào phân loại bệnh theo FIGO:

+ Giai đoạn I: cắt tử cung hoàn toàn, phần phụ hai bên và lấy hạch chậu, hạch cạnh động mạch chủ. Điều trị tia xạ bổ trợ khi có các yếu tố tiên lượng xấu.(độ mô học 2 hoặc 3, hoặc có xâm lấn trên ^ chiều sâu lớp cơ). Nếu ung thư niêm mạc tử cung đã lan xuống ống cổ tử cung và thâm nhiễm thì phải áp dụng phẫu thuật Wertheim.

+ Giai đoạn II: cắt tử cung hoàn toàn, hai phần phụ và lấy hạch. Sau 4-6 tuần tiến hành tia xạ hậu phẫu toàn khung chậu sau đó xạ áp sát. Trường hợp tổn thương tại cổ tử cung lớn thì tia xạ trước, sau 4 – 6 tuần mới tiến hành phẫu thuật.

+ Giai đoạn III: phẫu thuật và xạ trị vẫn là phương pháp điều trị chính. Nếu mổ được thì cắt tử cung hoàn toàn và xạ trị, nếu không thì xạ bằng kim radium đặt tại chỗ và hóa trị liệu hormon.

+ Giai đoạn IV: người bệnh ở giai đoạn muộn hoặc tái phát ở các vị trí xa, có thể điều trị tia xạ chống đau, chống chảy máu và chèn ép. Điều trị nội tiết và điều trị bằng progestatif.

Theo dõi định kỳ 3 tháng/lần trong 2 năm đầu, 6 tháng /lần trong 2 năm tiếp theo và sau đó mỗi năm một lần.

Tử Cung Tích Mủ Và Niêm Mạc Tử Cung Dày Lên Ở Chó

Viêm tử cung tích mủ và tăng sản nội mạc tử cung ở chó

Niêm mạc tử cung dày lên bất thường có thể xảy ra mọi lứa tuổi ở chó, mặc dù phổ biến hơn ở chó từ 6 tuổi trở lên. Trong khi đó, tử cung tích mủ là tình trạng u nang đầy mủ xuất hiện bên trong tử cung của chó, khiến cho lớp nội mạc tử cung to lên.

Tiên lượng cho cả hai bệnh trên là khá tốt, tuy nhiên, nếu cổ tử cung của chó bị đóng, chó sẽ bị đe dọa tính mạng và cần chăm sóc y tế ngay lập tức.

Triệu chứng và các dạng bệnh

Các triệu chứng bao gồm:

Chướng bụng (do tử cung mở rộng)

Tiết dịch âm đạo

Cổ tử cung bị đóng

Hôn mê

Trầm cảm

Chán ăn

Nôn mửa

Đi tiểu thường xuyên

Nguyên nhân

Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này ở chó là do tiếp xúc thường xuyên với estrogen và progesterone. Sự hình thành bệnh tăng nội mạc tử cung thường dẫn đến sự dày lên của lớp lót tử cung.

Những con chó cái lớn tuổi chưa bao giờ sinh con có nguy cơ cao hơn mắc viêm tử cung tích mủ hoặc tăng sản nội mạc tử cung.

Chẩn đoán

Bác sĩ thú y sẽ thực hiện một cuộc kiểm tra để xem xét loại và mức độ nghiêm trọng của sự tiết dịch âm đạo của chó, cũng như xem liệu cổ tử cung mở hay đóng. Chụp X quang và siêu âm sẽ được sử dụng để kiểm tra kích thước của tử cung và xác định xem chó có mang thai hay không.

Điều trị

Trong nhiều trường hợp, có thể điều trị viêm tử cung tích mủ ngoại trú. Tuy nhiên, nếu cổ tử cung bị đóng, tình trạng này có thể đe dọa đến tính mạng và cần điều trị ngay lập tức. Điều trị ưu tiên cho tình trạng này là cắt bỏ tử cung – loại bỏ buồng trứng và tử cung của chó. Còn có các lựa chọn khác nhưng nguy cơ ảnh hưởng cao đến chó và chỉ được khuyến cáo cho giống chó có giá trị cao.

Việc rửa sạch tử cung và các khu vực xung quanh sẽ được thực hiện để loại bỏ mủ và chất lỏng, hỗ trợ quá trình chữa bệnh. Thuốc kháng sinh thường được dùng để chống lại nhiễm trùng. Trong khi đó, prostaglandin được dùng để kiểm soát sự phát triển tế bào, kiểm soát hormone của chó, và làm cho các cơ trơn trong cơ thể của chó co lại.

Chăm sóc

Chó sẽ được xuất viện khi tử cung đã trở lại kích thước bình thường và không có dấu hiệu của mủ. Thuốc kháng sinh nên được dùng trong vài tuần để ngăn ngừa nhiễm trùng. Cần tiếp tục dùng thuốc để điều trị tiết dịch âm đạo cho đến khi quá trình chữa bệnh hoàn tất.

Phòng ngừa

Để chó qua thời kì động dục mà không được mang thai sẽ làm tăng tỷ lệ mắc tăng sản nội mạc tử cung. Do đó, việc thiến chó (hoặc loại bỏ buồng trứng của nó) là hình thức phòng ngừa bệnh tốt nhất.