Virut Gay Ung Thu Bao Tu / Top 10 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Sept.edu.vn

Download Nhung Loai “Gio Doc” Gay Ung Thu

Những loại “gió độc” gây ung thư Ba loại ung thư thường gặp thật khó trị: cứ 100.000 dân thì có 29,3 người mắc ung thư gan, 25,7 ung thư vướng phổi và 18,9 dính ung thư bao tử. Ông trời sao thật trớ trêu. Không phải đâu, người làm người chịu. Vi rút và chất cồn – Ung thư gan Hiện có cơn dịch nhiễm virút viêm gan HBV và HCV ở nước ta. Rõ ràng nhiễm virút viêm gan dẫn đến ung thư gan. Đây là gánh nặng cho các nước đang phát triển, loại này gây tử vong hàng thứ ba toàn cầu, thường gặp ở nam giới. Việt Nam có nguy cơ cao lắm: 42,3 nam và 18,5 nữ mới mắc tính trên 100.000 dân, cao hơn nguy cơ ở Trung Quốc 37,4 (nam) và 13,7 (nữ). Thói quen nhậu bí tỉ cặp kè nhiễm aflatoxin trong thức ăn nhiễm mốc giúp cho vi-rút tấn công gan như vào thành không nhà trống. Thuốc lá – Ung thư phổi Ung thư phổi là loại thường gặp nhất trên toàn cầu, gây tử vong số một. Xấp xỉ ung thư gan, không chỉ ở đàn ông mà cả phụ nữ. Chắc ai cũng hiểu vì sao. Tác hại của khói thuốc lá thật rõ. Đàn ông đã đành bụng làm dạ chịu, phụ nữ nước ta ít hút thuốc, lại quen hít khói ké. Năm 2008, có 37,6 ca trên 100.000 đàn ông và 16,4 trên 100.000 phụ nữ. Nhìn sang láng giềng, ung thư phổi là loại thường gặp nhất ở đàn ông Trung Quốc (45,9) và thứ nhì ở phụ nữ (21,3). 80% các trường hợp ung thư là do lối sống, dinh dưỡng không lành mạnh Khuẩn và thức ăn muối – Ung thư bao tử Cùng chia sẽ nguy cơ cao ở Hàn Quốc (41,4/100.000), Nhật Bản (31,1) và Trung Quốc (29,9). Mối liên hệ với nhiễm khuẩn H. Pylori và thức ăn muối mặn đã được xác định, thêm khói thuốc lá liên thủ khiến nguy cơ vượt trội ở đàn ông. Lối sống kiểu Tây – Ung thư đại trực tràng Xuất độ là 9,2/100.000. Thử so với các nước châu Á khác (Hàn Quốc, Nhật Bản và Singapore) xuất độ đến 30-40/100.000, phù hợp gia tăng nguy cơ của các nước công nghiệp do nếp sống phương Tây: chế độ ăn nhiều chất béo, ít rau quả, hút thuốc, ngồi một chỗ, ít vận động và béo phì do fast food. Vi rút và lối sống – Ung thư vú và cổ tử cung Đúng là ung thư nào cũng đáng sợ nhưng chị em đâu biết rằng các bệnh này của phụ nữ không đe doạ bằng các loại khác. Ở nước ta ung thư vú còn nhường ung thư gan và ung thư phổi. Số mới mắc là 15,6/100.000 phụ nữ. Ở các nước giàu như Tây Âu và Bắc Mỹ nguy cơ cao lắm: 89/100.000. Phụ nữ Trung Quốc có nguy cơ cao hơn (21,6), Hàn Quốc (38,9), Nhật Bản (42,7). Sát bên ta, Singapore lại vượt trội 59,9. Phải chăng do nếp sống phương Tây: độc thân, có con đầu lòng trễ, không cho con bú mẹ, chế độ ăn béo, thiếu vận động…? Ung thư cổ tử cung xuống hạng rồi, chỉ còn 11,4/100.000. Thật đáng mừng. Vài chục năm trước, đây là ung thư thường gặp nhất của phụ nữ ở TPHCM. Đã nhẹ hơn nửa gánh rồi. Thật hay nhờ chương trình rà tìm gồm khám phụ khoa định kỳ với xét nghiệm Pap. Mới đây lại biết rõ các virút HPV 16-18 cùng vài týp khác gây ung thư đã có vắc-xin trị. Đừng để bệnh nhập vào Ngày nay, con người biết nhiều nguyên nhân gây bệnh nhờ nắm được gánh nặng ung thư toàn cầu: Khoảng 80% do những gì con người ăn uống, hít thở, cọ xát hoặc phơi trải. Rõ là nước ta cũng trên một chuyến tàu: – Khói thuốc lá: Thuốc lá ra đòn sát thủ êm ái mà hết sức tàn độc. Khói thuốc lá chứa hơn 60 chất sinh ung, gây 15 loại ung thư, đâu chỉ hại người nuốt khói mà cả những người hít khói. – Bệnh lây truyền: Virút, vi khuẩn và ký sinh trùng gây 20% ung thư của loài người. Các virút âm thầm mai phục, nay lần mai lữa, bệnh trổ ra thì trở tay không kịp. Viêm gan do virút HBV và HCV lâu ngày dẫn đến ung thư. Các virút HPV gây ra nhiều ung thư, đặc biệt là cổ tử cung. Vi khuẩn H.Pylori có thể gây ung thư bao tử. – Nếp sống không lành: bệnh theo miệng mà vào, ăn uống không lành kèm thêm thiếu vận động, béo phì tăng nguy cơ ung thư bao tử, ruột già, vú… Có người nói “Phòng ngừa bệnh ung thư! Nói giỡn sao? Điều trị còn chưa được mà tính tới chuyện ngừa bệnh” thì chắc họ còn ngủ mơ. Đã biết nhiều thứ gây bệnh thì sao không phòng được. Năm 2010, WHO ước tính có thể phòng ngừa khoảng 40% số người mới mắc bệnh ung thư trên toàn cầu nhờ: – Sống lành: tránh xa khói thuốc lá. Tránh uống rượu quá đà. – Phòng tránh bệnh lây truyền (may quá đã có vắc-xin ngừa HBC, HPV; thử được H. Pylori). – Tập thể dục đều, ăn đúng (tránh thức ăn muối mặn, quá béo, cháy quá, thức ăn nhanh…), ăn lành (ăn nhiều rau đậu, trái tươi), giữ cân vừa phải

Tu Van Kham Va Chua Benh

Thưa bác sĩ, ba em có khám tại Bệnh viện Bình Dân và được chẩn đoán sỏi thận khoảng 7mm, bác sĩ có chỉ định Tán sỏi ngoài cơ thể. Bác sĩ cho em hỏi phương pháp này có gây ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe không ạ?

Chào bạn, Hiện nay, có rất nhiều phương pháp trị sỏi thận nhưng tán sỏi ngoài cơ thể được xem là giải pháp tiên tiến, hiện đại và hiệu quả nhất hiện nay bởi máy hoạt động theo nguyên lý dùng sóng chấn động ở bên ngoài cơ thể, tập trung vào viên sỏi với một áp lực lớn khiến viên sỏi vỡ và và sau đó theo nước tiểu ra ngoài. Phương pháp này có các ưu điểm: • Điều trị nhẹ nhàng, ít đau, thời gian thực hiện ngắn (khoảng 1 giờ), hồi phục sức khỏe nhanh. • Không phẫu thuật mổ nên tránh được các biến chứng sau mổ. • Khắc phục được tình trạng sót sỏi. Đây là ưu điểm đặc biệt của phương pháp tán sỏi ngoài cơ thể. • Ít tổn hại đến thận: Anh hưởng của tán sỏi ngoài cơ thể tới chức năng thận <1%, trong khi đó nếu dùng phương pháp mổ mở lấy sỏi có thể gây mất đi hơn 30% chức năng thận do chính đường rạch trên nhu mô thận. Chào anh, Nếu trước đây việc điều trị ngoại khoa của phì đại lành tính tuyến tiền liệt chủ yếu là mổ phanh thì hiện nay phương pháp phẫu thuật nội soi cắt tuyến tiền liệt đã trở lên phổ biến do những ưu việt mà nó mang lại. Nội soi cắt tuyến tiền liệt là phương pháp phẫu thuật nhẹ nhàng, hiệu quả và có thể áp dụng cho đa số các trường hợp phì đại lành tính tuyến tiền liệt đã có chỉ định mổ, giúp bệnh nhân tránh được một cuộc mổ, việc rạch thành bụng, và nguy cơ biến chứng của vết mổ như rò bàng quang. Anh nên đến khám tại các Phòng khám tiết niệu của Bệnh viện Bình Dân để được tư vấn thêm. Chào chị, Theo như tình trạng chị mô tả thì chị mắc bệnh lý tiểu không kiểm soát. Đây là bệnh thường gặp ở phụ nữ đã mang thai, mãn kinh. Chị nên đến Đơn vị Niệu nữ – Bàng quang thần kinh – niệu động học để được các bác sĩ tư vấn và chữa trị. Đi tiểu ra máu là một dấu hiệu bất thường. Có rất nhiều nguyên nhân gây ra tiểu máu trong đó cần loại trừ các bệnh ác tính ở đường tiết niệu, do đó em phải đến chuyên khoa niệu để tầm soát, loại trừ bệnh lý, nhất là bệnh lý ác tính. Em còn bị xuất tinh sớm và đau ở vùng bìu, tinh hoàn chứng tỏ đã có tình trạng viêm nhiễm ở đường sinh dục, do đó em nhất thiết phải đến bác sĩ khám để điều trị. Sau khi điều trị ổn định tất cả tình trạng viêm nhiễm này rồi mà vẫn còn xuất tinh sớm thì lúc đó mới tập trung điều trị xuất tinh sớm. Còn hiện giờ em đang có tình trạng viêm nhiễm thì phải ưu tiên điều trị bệnh lý cấp tính trước.

Nghiên Cứu Chữa Khỏi Ung Thư Máu Bằng Virut Hiv

Năm 2012, Jensen được chẩn đoán mắc bệnh ung thư máu (hay còn gọi là máu trắng, bạch cầu cấp). Đây là bệnh ung thư do sự sản sinh đột biến của các tế bào bạch cầu bất thường.

Thay vì thực hiện chức năng miễn dịch bảo vệ cơ thể, các bạch cầu bất thường này tấn công hồng cầu rồi đến cả các tế bào khác.

Anh Jensen đã cùng vợ và con trai đi khắp nước Mỹ, thực hiện nhiều cuộc điều trị và phẫu thuật nhưng vẫn không thành công. Cuối cùng, Jensen quyết định tham gia chương trình điều trị thử nghiệm tại Bệnh viện Đại học Pennsylvania (thành phố Philadelphia, bang Pennsylvania) và điều kỳ diệu đã xảy ra. Tuần trước, Jensen cùng vợ con trở về nhà sau khi được xác nhận cơ thể anh đã không còn các tế bào ung thư.

Gia đình Jensen hạnh phúc trở về nhà sau quá trình điều trị thử nghiệm thành công tại Bệnh viện Đại học Pennsylvania.

Chương trình nghiên cứu tại Bệnh viện Đại học Pennsylvania do tiến sĩ Carl June đứng đầu đã có hai thập kỷ phát triển những đột phát trong điều trị thử nghiệm, có thể ngăn chặn ung thư bạch cầu ở bệnh nhân tưởng như không thể chữa trị. Các nhà khoa học tập trung vào sử dụng các tế bào miễn dịch của bệnh nhân – được biết với tên gọi tế bào T, một loại tế bào bạch cầu và HIV – virus gây ra căn bệnh AIDS đã được vô hiệu hóa. “Chúng tôi loại bỏ hoàn toàn các đặc tính gây hại của HIV nhưng vẫn giữ nguyên đặc điểm quan trọng nhất của chúng là khả năng chèn gene mới vào tế bào miễn dịch”, bác sĩ June phát biểu trên đài KLS.

Liệu pháp thực nghiệm này được gọi là miễn dịch trị liệu tế bào T. Các nhà khoa học gỡ bỏ hàng tỷ tế bào T khỏi máu của bệnh nhân và tái lập chúng với một mẫu bị vô hiệu hóa của HIV trong phòng thí nghiệm. Những tế bào được biến đổi (gọi là tế bào CTL019) sau đó được phát triển trong phòng thí nghiệm và truyền lại vào bệnh nhân để nhận dạng, tiêu diệt các tế bào ác tính. Sau khi làm xong nhiệm vụ, các tế bào CTL019 sẽ ngủ yên trong cơ thể, đề phòng trường hợp ung thư xuất hiện trở lại.

Nhìn lại mối liên hệ giữa HIV và bạch cầu cấp tính trong lịch sử, năm 2006, Timothy Brown, một bệnh nhân sau hơn 10 năm dương tính với HIV, mắc thêm bệnh bạch cầu tủy sống cấp tính. Sau quá trình điều trị, cuối cùng ông đã được ghép tủy xương của một người hiến tặng có biến dị gene hiếm gặp. Việc cấy ghép không chỉ giúp điều trị bệnh bạch cầu của Brown mà còn bài tiết HIV ra khỏi cơ thể ông. Brown trở thành người đầu tiên trong lịch sử được chữa trị khỏi HIV. Trường hợp của Timothy Brown đã tạo lên một cuộc cách mạng trong nghiên cứu, thôi thúc các nhà khoa học tập trung vào việc sử dụng hệ thống miễn dịch để tiêu diệt các tế bào ung thư.

Năm 2012, cô bé 7 tuổi Emma Whitehead trở thành bệnh nhi đầu tiên thực hiện liệu pháp miễn dịch tế bào T, cũng là bệnh nhân đầu tiên được điều trị bệnh bạch cầu cấp tính. Những xét nghiệm hai tháng sau đó không phát hiện ra dấu hiệu của ung thư trong cơ thể cô bé.

Emma White đã hoàn toàn khỏi bệnh nhờ thực hiện liệu pháp miễn dịch tế bào T.

Cả Jensen và Whitehead đều là một phần của nghiên cứu được thực hiện tại bệnh viện Nhi Philadelphia và Bệnh viện trường đại học Pennsylvania (Penn Medicine). Tổng cộng có 30 bệnh nhân bạch cầu cấp tính tham gia các nghiên cứu này, trong đó có 5 người lớn từ 26 đến 60 tuổi và 25 trẻ em, thanh thiếu niên từ 5 đến 22 tuổi. Sáu tháng sau khi được điều trị, 23/30 bệnh nhân vẫn sống, 19 người đã thuyên giảm bệnh hoàn toàn và không cần đến các liệu pháp điều trị khác.

June mô tả hiệu quả của việc điều trị là “vượt quá mong đợi của mình”. Tháng 7 vừa qua, Cục quản lý thực phẩm và dược Mỹ đã coi phương pháp điều trị tế bào T là một liệu pháp đột phá trong điều trị cũng như ngừa tái phát bệnh bạch cầu cấp tính ở người lớn và trẻ em. Bước đi tiếp theo của June là sẽ sử dụng liệu pháp gene để điều trị các loại bệnh ung thư khác.

(Theo Hoàng Anh – VNexpress, chúng tôi New England Journal of Medicine)

Những Tu Sĩ Mang Thánh Giá Đỏ

Những tu sĩ mang thánh giá đỏ

Chúng tôi tìm đến nhà chính của dòng Camillô trong một con hẻm nhỏ trên đường Tam Châu, Thủ Đức, trong một buổi chiều muộn cũng vừa ngay lúc nhà tất bật nhất bởi những chuyến xe đón bệnh nhi ung thư từ Bệnh viện Ung bướu và bệnh nhi suy thận từ Bệnh viện Nhi đồng trở về. Cơ sở của nhà dòng không quá bề thế nhưng nơi đây vừa là chỗ ăn ở, học tập, sinh hoạt của các cha, các tu sĩ; vừa là mái ấm mang tên Gary dành cho nhiều bệnh nhi cùng phụ huynh của các em. Cha bề trên Giuse Trần Văn Phát chia sẻ, ngoài nhà chính kiêm mái ấm, dòng còn có một số cơ sở khác cũng đang gánh cả hai chức năng: “Đơn giản bởi chọn lựa phục vụ cho bệnh nhân nên mọi xây dựng cơ sở của dòng cũng chỉ hướng làm sao tiện lợi cho những đối tượng cần tương trợ. Mọi ưu tiên đều dành cho người đau yếu”.

CHỐN YÊU THƯƠNG

Nói về các cơ sở bác ái của dòng cũng như những “địa chỉ vàng” về bác ái mà dòng cộng tác, cha Phát nhớ lại cả một chặng đường dài với những cơ duyên và chọn lựa “theo ý Chúa”. Trong đó, Mai Tâm (Thủ Đức) là cơ sở đầu tiên dòng tham gia vào công tác bác ái xã hội, bắt đầu hoạt động vào năm 2005. Địa chỉ này ra đời nhằm giúp đỡ, cưu mang và chăm sóc các trẻ em bị nhiễm, ảnh hưởng bởi HIV/AIDS. Sau nhiều năm hoạt động, mái ấm trở thành gia đình của gần 100 em có hoàn cảnh đặc biệt, từ sơ sinh cho đến 22 tuổi. Ở đây, các em được chăm lo về dinh dưỡng, sức khỏe, có điều kiện học hành. Mẹ của các bệnh nhi cũng được các cha, thầy, bác sĩ tư vấn và cung cấp những kiến thức giúp ngăn ngừa lây truyền HIV, được hỗ trợ học nghề (may, thủ công mỹ nghệ…) để tự nuôi sống bản thân. Những vết thương tâm hồn của bệnh nhân trước những kỳ thị, hờn tủi do HIV phần nào được xoa dịu, niềm tin vào cuộc sống được phục hồi nhờ những cánh tay luôn rộng mở của các tu sĩ Camillô. Cơ sở bảo trợ xã hội Mai Tâm dù nhỏ bé, khiêm tốn nằm ở một con hẻm nhỏ nhưng đã trở thành nơi nương tựa của biết bao mảnh đời.

Ngay sau mái ấm Mai Tâm, dòng mở thêm mái ấm đặt tên là Naza vào năm 2006. Đây là nơi nuôi dưỡng, chữa bệnh và nâng đỡ đời sống tâm linh cho bệnh nhân nhiễm HIV/ AIDS ở giai đoạn cuối. Công việc của người phục vụ ở Naza dù lắm vất vả song suốt nhiều năm, mái ấm này không hề khép cửa, khép lòng trước những cảnh đời đau khổ. Có những con người đã ra đi mãi mãi sau một thời gian dài được chăm sóc, nhưng họ đã được nâng đỡ tận tình cả phần thể xác lẫn tâm hồn đến những giây phút cuối đời.

NHỮNG CHUYẾN XE TÌNH THƯƠNG

Khi mở rộng thêm hoạt động, mái ấm Gary trở thành nhà chính của dòng, là nơi hỗ trợ chỗ ăn ở miễn phí cho trẻ em nghèo mang bệnh ung thư hoặc những bệnh hiểm nghèo khác, cùng với thân nhân đang gặp khó khăn về nơi ăn chốn ở trong thời gian điều trị. Ngoài ra, dòng cũng tổ chức những chuyến xe tình thương đưa đón từ mái ấm vào bệnh viện và ngược lại. Mỗi ngày, các thầy theo xe đưa bệnh nhân đến viện từ sớm và đến chiều thì đứng chờ sẵn ở viện để thu xếp giúp các trường hợp sẽ ở lại viện hoặc về mái ấm. Chuyến xe bữa đầy bữa vơi vì các bé có thể phải nằm lại để vô hóa chất, phẫu thuật… Nhưng đều đặn mỗi ngày, chiếc xe quen thuộc cùng các tu sĩ vẫn đúng giờ đứng đợi. Đây là một dự án từ thiện xã hội của dòng với sự cộng tác của các bạn bè thân hữu.

Theo cha Giuse Vũ Anh Hoàng, phụ trách tại nhà Gary:”Mục đích của mái ấm là tạo nên môi trường thân thương của gia đình để khơi dậy lại trong tim trẻ đang mang bệnh hiểm nghèo niềm tin và hy vọng vào cuộc sống”. Những căn phòng luôn sạch sẽ, thoáng mát, tiện lợi cho bệnh nhi và những bữa cơm nóng sốt dành cho trẻ sau khi xạ trị và hóa trị cần chế độ dinh dưỡng đặc biệt luôn được chăm chút. Song song đó, nhu cầu cơ bản của trẻ như vui chơi, giáo dục và các hoạt động tinh thần khác cũng được chú trọng. Do bệnh nặng và phải điều trị dài ngày, các em phải nghỉ học, thiếu bạn, nên mái ấm có các anh chị em tình nguyện viên tổ chức những hoạt động cho trẻ như đọc, viết, vẽ, hát… Chị Chung Kim Tiên, 42 tuổi, quê tận Cà Mau, có con phải chạy thận chia sẻ: “Tôi ở nhà của dòng tính ra 2 năm rồi. Ăn ở, đi lại đều được giúp dù gia đình tôi không theo đạo Chúa. Suốt 2 năm con chạy thận nằm viện nhiều hơn ở nhà, nếu không có sự tương trợ này không biết mẹ con tôi phải xoay sở như thế nào nữa…”.

Nhà dòng còn điều hành hai phòng khám từ thiện, nhân đạo tại Sài Gòn. Phòng khám Camillô được thành lập vào năm 2006 tại đường Lê Văn Sỹ – Q3, là nơi khám bệnh và phát thuốc miễn phí cho bệnh nhân nghèo. Sau đó, cơ sở dời về nhà thờ Đồng Tiến (Q10) và đổi tên thành phòng khám từ thiện Mai Khôi – Đồng Tiến. Mở cửa từ 16-19g các ngày trong tuần, mỗi ngày phục vụ khoảng 50- 60 bệnh nhân. Đang chờ đến lượt khám, bà Nguyễn Thị Mai (40t), một người gốc miền Trung cho biết: “Phòng khám này rất tốt, các cha, thầy và bác sĩ đều rất nhiệt tình. Dù đã cuối ngày, nhiều mệt mỏi song họ vẫn nhẹ nhàng, lắng nghe bệnh nhân”. Phòng khám từ thiện Mai Khôi (đường Hai Bà Trưng, Q3.) cũng là địa chỉ lâu năm giúp tư vấn, khám bệnh, chuyển gởi bệnh nhân tới các cơ sở, và phát thuốc đặc trị miễn phí cho bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS. Xa xôi tận Kiên Giang, người tu sĩ Camillô cũng đã phục vụ từ nhiều năm nay tại phòng khám đa khoa Nhân đạo Kinh 7. Phòng khám này phục vụ bệnh nhân nghèo trong khu vực với số lượng bệnh nhân mỗi ngày hiện nay khoảng từ 200 đến 250 người…

Cứ thế, ở giữa những nhộn nhịp của chốn phố thị, người tu sĩ mang thánh giá đỏ vẫn kiên trì sống theo linh đạo, ra sức phục vụ trong tinh thần nhân ái, hy sinh.

Qua các cơ sở y tế xã hội, người tu sĩ Camillô luôn hết mình trong việc quan tâm đến sức khỏe, chữa trị, nâng đỡ và phục vụ người bệnh, người bị bỏ rơi trong xã hội. Năm 1591, Tòa Thánh chính thức công nhận vai trò của dòng. Tại Việt Nam, dòng bắt đầu hiện diện vào năm 1993.

Minh Hải

Nguồn tin: Báo Công Giáo & Dân Tộc

Ung Thu Khoang Mieng, Ung Thu, Dieu Tri Ung Thu Khoang Mieng, Benh Ung Thu Khoang Mieng, Nguyen Nhan Mac Benh Ung Thu, Phuong Phap Dieu Tri Ung Thu

Khái niệm về ung thư khoang miệng: bệnh ung thư khoang miệng là một loại bệnh có khối u ác tính trong khoang miệng thường hay gặp. Ung thư vòm họng trong giai đoạn đầu khá giống với bệnh viêm loét khoang miệng, có rất nhiều bệnh nhân khi mắc bệnh ung thư vòm họng trong giai đoạn đầu thường lầm tưởng là mình bị nhiệt miệng, loét miệng đơn thuần hoặc chỉ là một căn bệnh về miệng nào đó, chính điều này đã làm bỏ lỡ mất cơ hội điều trị bệnh sớm nhất và tốt nhất.

Nguy cơ gây ung thư khoang miệng:

Các nguyên nhân dẫn đến ung thư khoang miệng cho đến nay vẫn chưa được xác định rõ ràng, nhưng trong đó vẫn có các yếu tố sau: hút thuốc lá và uống bia rượu là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến mắc bệnh trong một thời gian dài: niêm mạc miệng bị kích thích bởi một chiếc răng nhọn hoặc đôi khi do xương cá đâm vào hoặc bị tác động do ăn trầu thuốc sau một thời gian dài. Ở Việt Nam, những người ăn trầu thuốc (thuốc lào) trong thời gian dài cũng làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư này. Thói quen ăn trầu thuốc, răng lệch lạc, vệ sinh răng miệng kém… có thể gây nên những tổn thương cơ học trong khoang miệng tạo điều kiện thuận lợi cho ung thư phát triển. Bệnh cũng thường gặp ở nhóm nam giới trên 40 tuổi;…

Ung thư khoang miệng có những triệu chứng

1. Đau đớn: giai đoạn đầu thông thường không đau hoặc chỉ một chỗ nào đó trong miệng có cảm giác bất thường khi chạm vào, nếu như xuất hiện vết loét da miệng gây cảm giác đau, theo đà xâm lấn của khối u tới những dây thần kinh xung quanh, có thể dẫn đến đau trong tai và khoang mũi họng.

2. Thay đổi sắc da: Niêm mạc khoang miệng nếu như thay đổi màu sắc, màu nhợt hoặc màu đen lại, có nghĩa là khi đó tế bào biểu mô niêm mạc miệng đang thay đổi. Đặc biệt là niêm mạc miệng chuyển thô, dày hơn hoặc xơ cứng lại, xuất hiện niêm mạc miệng trắng bợt hoặc ban đỏ, rất có thể là biến chứng của ung thư.

3. Loét không khỏi: Vết loét miệng thông thường không thể quá 2 tuần mà không khỏi, nếu như có cảm giác nóng rát, đau quá thời gian 2 tuần vẫn không đỡ nên cảnh giác với ung thư khoang miệng.

4. Sưng hạch: ung thư hạch thường di căn đến vùng hạch cổ gần đó, có khi ổ bệnh nguyên phát rất nhỏ, thậm chỉ triệu chứng còn chưa rõ, nhưng hạch vùng cổ đã bị di căn. Do đó, khi hạch vùng cổ đột ngột sưng to, cần đi kiểm tra chụp CT, để kiểm tra có phải hạch do ung thư hay không.

5. Bên trong khoang miệng chảy máu: Chảy máu là một tín hiệu nguy hiểm lớn của bệnh ung thư khoang miệng. Vì khối u phát triển trong khoang miệng tiếp xúc nhẹ cũng sẽ gây chảy máu.

6. Chức năng gặp trở ngại: Khối u có thể xâm lấn cơ đóng mở miệng và xương cằm làm cho vận động đóng mở của cơ miệng bị giới hạn, gây ra hiện tượng ngậm mở miệng khó khăn.

7. Xương hàm và răng: một vị trí nào đó tại xương hàm sưng to, làm cho mặt bị lệch. Đột nhiên xuất hiện hiện tượng răng lung lay, rụng, khi nhai đồ ăn khó khăn, có cảm giác khó nhai như người lắp răng giả, vùng khoang mũi họng tê, đau, sau khi điều trị thì bệnh không có chuyển biến, nên cảnh giác là căn bệnh ung thư khoang miệng.

8. Vận động của lưỡi và tri giác: tính linh hoạt của lưỡi bị hạn chế, dẫn đến nhai, nuốt hoặc nói khó khăn, hoặc một bên lưỡi mất cảm giác, tê, tất cả đều cần kiểm tra xác định nguyên nhân sớm.

Ngoài ra còn xuất hiện các hiện tượng khác như sự bất thường ở thần kinh mặt, cảm giác tê, chảy máu mũi không rõ nguyên nhân…, cũng phải lập tức đến bệnh viện sớm để kiểm tra tìm nguyên nhân chính xác.

Điều trị sớm, hiệu quả cao

Ung thư khoang miệng được chia làm 4 giai đoạn, trong đó giai đoạn 1 và 2 được coi là giai đoạn sớm. Tùy theo giai đoạn của khối u mà bệnh nhân sẽ được điều trị các biện pháp thích hợp. Ở giai đoạn sớm, việc điều trị ung thư khoang miệng sẽ đơn giản và đạt hiệu quả cao, người bệnh có thể bảo tồn được chức năng của khoang miệng cũng như đảm bảo về mặt thẩm mỹ. Còn ở giai đoạn muộn, việc điều trị sẽ khó khăn hơn rất nhiều, hiệu quả điều trị kém, gây ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sống của người bệnh.

Do đó khi thấy một trong các dấu hiệu đã nêu trên, người bệnh nên đến cơ sở y tế chuyên khoa để khám. Ngoài ra để phòng và hạn chế nguy cơ gây ung thư khoang miệng cần thường xuyên giữ vệ sinh răng miệng, không nên hút thuốc lá, uống rượu, ăn trầu,… giữ cho cơ thể luôn khỏe mạnh.

Phương pháp chẩn đoán ung thư miệng

1. Kiểm tra hình ảnh học

(1) Kiểm tra đồng vị phóng xạ có thể cho biết tình trạng tuyến giáp và di căn xương của ung thư miệng.

(2) Chụp Xquang và chụp cắt lớp, có thể giúp bác sỹ nắm được thông tin tương đối có giá trị về tình trạng bệnh khi ung thư miệng di căn đến xương hàm trên, hàm dưới, xoang mũi và các khoang cạnh mũi.

2. Xét nghiệm tế bào học và sinh thiết

(1)Xét nghiệm tế bào học phù hợp cho tiền ung thư chưa có triệu chứng hoặc ung thư giai đoạn đầu mà phạm vi xâm lấn của ung thư chưa rõ ràng, sử dụng cho những trường hợp kiểm tra sàng lọc, sau đó đối với những kết quả dương tính và hoài nghi ung thư sẽ tiếp tục tiến hành sinh thiết xác định chính xác bệnh.

(2)Đối với chuẩn đoán ung thư miệng biểu mô tế bào vảy thông thường áp dụng chọc hút hoặc cắt một phần khối u đi sinh thiết. Vì niêm mạc bề mặt thường loét hoặc không bình thường, vị trí nông, nên tránh tổ chức hoại tử, lấy tế bào tại nơi tiếp xúc giữa tổ chức ung thư với các tổ chức bình thường xung quanh, khiến cho những tiêu bản lấy được vừa có tế bào ung thư vừa có tế bào thường.

3. Tự kiểm tra

(1)Kiểm tra vùng đầu: Tiến hành quan sát sự đối xứng, chú ý sự thay đổi màu sắc da với vùng đầu và cổ.

(2) Kiểm tra vùng cổ: dùng tay kiểm tra, từ sau tai sờ đến xương hàm, chú ý khi sờ có thấy đau và sưng hay không.

(3) Kiểm tra môi: Trước tiên lật bên trong môi dưới, quan sát môi và niêm mạc trong môi, dùng ngón tay trỏ và ngón tay cái lật môi dưới từ trong ra ngoài, từ bên trái qua bên phải, sau đó kiểm tra môi trên cũng giống như vậy, sờ xem có khối u hay không, quan sát xem có tổn thương gì hay không. Tiếp đó dùng phương pháp tương tự kiểm tra bên trong môi trên.

(4) Kiểm tra lợi: Kéo môi ra, quan sát lợi, và kiểm tra bằng cách sờ vùng má xem có bất thường gì không.

(5) Kiểm tra lưỡi: đưa lưỡi ra, quan sát màu sắc và kết cấu lưỡi, dùng gạc vô trùng bọc đầu lưỡi lại sau đó kéo lưỡi hướng sang phải, rồi sang trái để quan sát 2 bên cạnh của lưỡi.

(6) Kiểm tra vòm miệng phía trên : đối với kiểm tra vòm miệng cần dùng phần tay cầm của bàn chải đánh răng đè lưỡi bẹt xuống, đầu hơi ngả về phía sau, quan sát màu sắc và hình thái của ngạc mềm và ngạc cứng.