Vi Rút Gây Ung Thư Cổ Tử Cung / Top 12 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Sept.edu.vn

Làm Sao Để Phòng Ngừa Vi Rút Hpv Gây Ung Thư Cổ Tử Cung?

Với tình hình dịch COVID-19 do virus Corona đang bùng phát tại Việt Nam, chúng tôi khuyên dùng Nước rửa tay khô để diệt khuẩn phòng bệnh.

Theo tôi được biết, ung thư cổ tử cung (UTCTC) là do nhiễm vi rút mà ra. Vi rút đó là vi rút gì? Làm sao để phòng ngừa được sự lây nhiễm vi rút đó?

– Vi rút gây UTCTC là Human Papilloma Virus, gọi tắt là HPV. Đây là loại vi rút gây u nhú ở người, rất dễ lây lan qua tiếp xúc da ở đường sinh dục. Nhiễm HPV là nhiễm trùng đường sinh dục, thường gặp ở phụ nữ. Đây là nguyên nhân gây ra UTCTC. Tuy nhiên, không phải ai nhiễm HPV cũng bị UTCTC. Có người nhiễm vi rút HPV rồi tự hết mà không cần điều trị. Một số khác nhiễm lâu dài với những loại HPV có khả năng gây UT qua nhiều năm thì vi rút sẽ gây ra những tổn thương ở CTC, nếu không được phát hiện điều trị sớm sẽ tiến triển thành UT. Những loại HPV gây ra UTCTC thường gặp nhất là HPV 16, 18, 31 và 45. Bốn type này là thủ phạm gây ra hơn 80% các ca UTCTC.

Hạn chế quan hệ tình dục sớm, không quan hệ tình dục với nhiều người và tình dục an toàn là những cách có thể giúp giảm nguy cơ nhiễm HPV. Tuy nhiên, cách phòng ngừa nhiễm HPV hiệu quả nhất là tiêm ngừa vắc-xin. Hiện ở nước ta đã có vắc-xin ngừa những type HPV gây UT chủ yếu. Bạn có thể chủng ngừa tại các trung tâm y tế dự phòng, Viện Pasteur và các bệnh viện phụ sản. Để phòng ngừa tối ưu UTCTC, bạn nên kết hợp chủng ngừa HPV và khám tầm soát bằng phết tế bào CTC mỗi năm một lần.

GS-BS sản phụ khoa Nguyễn Thị Ngọc Phượng

(Chủ tịch Hội Nội tiết sinh sản & vô sinh TP.HCM)

PNO

Mẹo sống an lành, làm hiệu quả:

Bài viết Làm sao để phòng ngừa vi rút HPV gây ung thư cổ tử cung? ( https://www.meo.vn/lam-sao-de-phong-ngua-vi-rut-hpv-gay-ung-thu-co-tu-cung.html ) được sưu tầm bởi Mẹo vặt hay (https://www.meo.vn). Xin vui lòng giữ nguồn khi tái sử dụng thông tin. Chân thành cảm ơn.

Virus Hpv Gây Ung Thư Cổ Tử Cung

Virus HPV là loại virus gây mụn cóc sinh dục. Chúng để lại hệ quả nguy hiểm là gây ra ung thư cổ tử cung. Ước tính tỷ lệ ung thư cổ tử cung do virus này gây ra lên đến 90%.

Tuy nhiên, không phải ai trong số chúng ta cũng đều biết rằng virus HPV còn có thể lây và phát bệnh trên mặt chứ không chỉ bị ở vùng sinh dục. Vì niêm mạc ở bộ phận sinh dục mỏng, dễ trầy xước trong quá trình giao hợp, nên dễ bị nhiễm bệnh nếu quan-hệ tnh-dục không an toàn. Niêm mạc ở miệng cũng rất mỏng, nên khả năng lây nhiễm sẽ rất cao khi tiếp xúc trực tiếp với dịch tiết ra trong quá trình “quan hệ” với người mang mầm bệnh cho dù không xảy ra trầy xước.

1. HPV lây lan qua đường nào?

Con đường lây nhiễm HPV ở miệng chủ yếu qua hoạt động quanhệ tình-dục. Ngày nay, việc “yêu” đường miệng đã trở nên phổ biến hơn, đó cũng chính là lý do tại sao tỉ lệ chị em mắc các bệnh tình dục ở miệng (chủ yếu là nhiễm HPV) ngày càng tăng.

Nói một cách đơn giản hơn, virus HPV có thể lây nhiễm qua đường miệng nếu bạn có tiếp xúc với miệng hoặc “vùng kín” của người nhiễm bệnh. Virus HPV có thể xâm nhập vào cơ thể bạn qua các vết xước trên “vùng kín” của “đối tác” hoặc vết thương hở trong miệng của bạn.

Những người có nhiều “đối tác” tình dục càng có nhuy cơ nhiễm trùng HPV cao hơn những người khác. Nếu bạn có ít nhất 20 “đối tác” tình dục khác nhau, nguy cơ gia tăng nhiễm HPV cao hơn tới 20%. Những người hút thuốc lá cũng dễ bị nhiễm HPV do hệ miễn dịch và sức đề kháng của cơ thể bị giảm đi đáng kể.

2. Các triệu chứng nhiễm virus HPV giai đoạn sớm

Sự thật là đa số những người bị nhiễm HPV dù ở miệng hay ở bộ phận sinh dục đều không có triệu chứng cụ thể ở giai đoạn đầu. Điều này có nghĩa rằng người bệnh sẽ rất khó để nhận ra mình đang bị nhiễm bệnh cho tới khi bệnh chuyển sang nặng và biểu hiện ra bên ngoài hoặc lây cho người khác và người bị lây có dấu hiệu phát bệnh.

Nếu bạn bị lây nhiễm HPV ở miệng và không được điều trị kịp thời, hiệu quả, nó có thể dẫn đến ung thư vòm họng.

Khi bị nhiễm HPV ở miệng, rất nhiều người có những triệu chứng sau đây:

Phát ban, mẩn đỏ, lở loét… ở trong khoang miệng

Gặp khó khăn trong việc nuốt

Ho ra máu, khản giọng

Có khối u trong má hoặc ở cổ

Tuy nhiên, khi thấy đầy đủ các triệu chứng này xuất hiện thì rất có thể bệnh đã đang trong giai đoạn cuối. Ngoài ra, khi bị nhiễm HPV, người bệnh có thể có những triệu chứng dễ nhầm với bệnh ung thư như: đau họng, có một mảng màu đỏ hoặc màu trắng trên amiđan, tê lưỡi, sưng hoặc đau ở xương hàm… Vì vậy, nếu thấy xuất hiện những triệu chứng này, bạn cần đi khám để xác định đó là triệu chứng của bệnh ung thư hay chỉ là nhiễm trùng HPV để có phương pháp điều trị thích hợp.

Nếu bạn thấy có các dấu hiệu cảnh báo nhiễm HPV ở miệng trong hơn 2 tuần, bạn cần đi khám ngay, tránh để bệnh nặng thêm và khó điều trị.

3. Chẩn đoán HPV bằng cách nào?

Sự xuất hiện của các mụn cóc vùng sinh dục là một cách để chẩn đoán HPV. Bác sĩ có thể chỉ cần xem xét để chẩn đoán. Tuy nhiên, các loại HPV có kèm theo mụn cóc thường không phải là những loại dẫn đến ung thư.

Những phụ nữ bị nhiễm HPV gây ung thư có thể sớm phát hiện ra nhờ vào kết quả kiểm tra Pap bất thường. Kiểm tra Pap là cách chính yếu để bác sĩ có thể tìm thấy ung thư cổ tử cung hoặc các thay đổi báo trước bệnh ung thư ở cổ tử cung.

Xét nghiệm này thường hiếm khi diễn ra định kỳ ở phụ nữ dưới 30 tuổi bởi vì có nhiều phụ nữ trẻ hơn bị phơi nhiễm HPV và cơ thể họ thường loại bỏ virút mà không cần điều trị. Xét nghiệm ADN có thể gây nên những lo lắng không cần thiết. Một số chuyên gia cũng tin rằng ở những phụ nữ trẻ thì cổ tử cung có thể chịu đựng tốt HPV hơn so với phụ nữ khi về già.

Ở nam giới, cũng như nữ giới, các mụn cóc vùng sinh dục phản ánh việc bị nhiễm HPV. Nhưng không có một kiểm tra cụ thể nào về các loại HPV gây ung thư chon am giới ở thời điểm này.

4. Điều trị HPV ở phụ nữ như thế nào?

Tùy thuộc vào bao nhiêu mô tế bào bị loại bỏ và lấy ra, ít hay nhiều cũng sẽ ảnh hưởng đến “đường ra” của em bé và gây nên chứng suy cổ tử cung. Tình trạng này rất dễ khiến mẹ bầu bị sảy thai bởi cổ tử cung không đủ chắc để giữ thai nhi. Khi mang thai, nếu mẹ bầu bị nhiễm HPV vẫn duy trì chuyện “yêu đương”, rất có thể bệnh sẽ lây cho ông xã nếu không có biện pháp bảo vệ. Hơn nữa, vi rút còn có “khả năng” di chuyển qua dây nhau và gây mụn cóc ở dâu thanh quản của bé con trong bụng.

Hiện đã có vắc-xin phòng ngừa từ ban đầu cho bệnh ung thư cổ tử cung. Tại Singapore, hai loại thương mại hiện có là Cervarix và Gardasil. Cả hai loại vắc-xin đã được chứng minh là có hiệu quả trong việc bảo vệ chống lại HPV 16 và 18, nguyên dân dẫn đến 70% trường hợp ung thư cổ tử cung. Tất cả phụ nữ trong độ tuổi sinh sản được khuyến khích tiêm chủng loại ung thư có thể được ngăn ngừa này.

Mọi thắc mắc về vấn đề HIV, vui lòng gọi đến tổng đài 19006237 để được tư vấn HIV , tư vấn xét nghiệm HIV trực tiếp từ chuyên gia.

9 Nguyên Nhân Gây Ung Thư Cổ Tử Cung

Ung thư cổ tử cung là một loại khối u ác tính mà phụ nữ thường gặp phải. Bệnh thường gặp phải ở phụ nữ trong độ tuổi trước và sau mãn kinh. Do đó, để góp phần giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh, bạn nên nắm rõ những nguyên nhân gây bệnh để có biện pháp phòng tránh ngay từ ban đầu.

Do nhiễm virus HPV

Hầu hết các trường hợp mắc phải căn bệnh này là do người bệnh nhiễm virus HPV trong thời gian dài. Virus HPV là virus gây u nhú, lây truyền qua đường tình dục, qua tiếp xúc ở da, âm đạo, dương vật. Virus HPV có nhiều chủng loại khác nhau. Có những chủng loại gây nổi mụn cóc ở tay, chân, gây sùi mào gà ở vùng hậu môn, bộ phận sinh dục. Tuy nhiên những chủng này không gây nguy hiểm nhiều cho sức khỏe.

Quy trình phát triển của bệnh do nhiễm virut HPV

Một số chủng HPV nguy hiểm có thể dẫn đến các khối u ác tính như UT cổ tử cung, UT buồng trứng ở phụ nữ và UT dương vật ở nam giới.

Bất kỳ phụ nữ nào cũng có nguy cơ nhiễm virus HPV, tuy nhiên có gây bệnh ung thư CTC hay không, nó còn tùy thuộc vào chủng loại HPV và mức độ nguy hiểm của nó.

Do quan hệ tình dục sớm, quan hệ tình dục với nhiều bạn tình

Virut HPV chủ yếu lây qua đường tình dục. Do đó quan hệ tình dục sớm hay quan hệ với nhiều bạn tình làm tăng nguy cơ lây nhiễm virus gây bệnh. Tuy nhiên, không chỉ những đối tượng này mới có nguy cơ mắc bệnh, mà ngay cả những người “không quan hệ ngoài lề” nhưng vẫn phải đối diện với căn bệnh này.

Một yếu tố khác cũng làm tăng nguy cơ mắc bệnh là thói quen vệ sinh cá nhân hàng ngày kém, trước và sau khi quan hệ tình dục.

Hút thuốc lá

Khói thuốc lá là nguyên nhân gây ra nhiều bệnh ung thư, trong đó bao gồm cả ung thư cổ tử cung. Các hóa chất độc hại trong khói thuốc lá sẽ làm phá hủy các tế bào bình thường và làm đẩy nhanh quá trình hình thành và phát triển của tế bào ác tính.

Hút thuốc lá là một trong những nguyên nhân dẫn đến bệnh

Người có hệ thống miễn dịch bị suy yếu

Những người có hệ miễn dịch yếu rất dễ bị căn bệnh này tấn công, đặc biệt là đối với những bệnh nhân mắc virus HIV hoặc những người sử dụng thuốc làm ức chế hệ miễn dịch.

Do bị stress, căng thẳng thần kinh kéo dài

Nguyên nhân này đã được các nhà nghiên cứu khoa học tại trung tâm Ung thư Fox Chase chứng minh cụ thể bằng các công trình nghiên cứu. Khi phụ nữ thường xuyên sống trong tâm trạng ức căng thẳng thần kinh, stress kéo dài sẽ có nguy cao mắc bệnh cao. Do đó, một lối sống lành mạnh, lạc quan, vui vẻ là điều cần thiết giúp mỗi chúng ta tăng cường sức đề kháng cho cơ thể để phòng tránh bệnh, đồng thời giúp nâng cao chất lượng cuộc sống.

Giảm thiểu những căng thẳng thần kinh sẽ giúp bạn hạn chế nguy cơ mắc bệnh

Sinh con sớm khi tuổi còn quá trẻ

Việc sinh con trước 17 tuổi sẽ khiến các chị em phụ nữ có nguy cơ mắc ung thư cổ tử cung cao hơn. Lý do là khi ở độ tuổi này, cơ quan sinh dục, sinh sản của các bạn gái còn chưa phát triển hoàn thiện, dễ gây các tổn thương cho cơ quan sinh sản, đặc biệt là cổ tử cung.

Sinh con nhiều và liên tục

Những phụ nữ có từ 3 người con trở lên có nguy cơ mắc bệnh cao gấp đôi so với những người không có con.

Sinh con nhiều và liên tục sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe sinh sản của phụ nữ

Do lạm dụng thuốc tránh thai

Thuốc tránh thai là một trong những biện pháp tránh thai được nhiều cặp vợ chồng lựa chọn bởi tính tiện lợi của nó. Tuy nhiên nó cũng mang lại những tác dụng phụ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của phụ nữ, đặc biệt nó gây nên nguy cơ mắc ung thư cổ tử cung. Do đó thay vì sử dụng thuốc tránh thai, phụ nữ nên lựa chọn các biện pháp tránh thai an toàn khác để giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh UT cổ tử cung.

Lạm dụng thuốc tránh thai sẽ làm tăng nguy cơ mắc UT CTC

Có tiền sử mắc các bệnh lây qua đường tình dục khác

Nếu như bạn từng mắc các căn bệnh lây qua đường tình dục như lậu, giang mai… thì nguy cơ mắc bệnh cũng cao hơn so với người bình thường.

Điều kiện kinh tế gia đình thấp

Điều kiện kinh tế gia đình là yếu tố gián tiếp gây nên nguy cơ mắc bệnh ung thư cổ tử cung. Bởi vì với những người có tiềm lực kinh tế, họ sẽ có điều kiện để thăm khám sức khỏe định kỳ, cũng như sử dụng những thực phẩm bảo vệ sức khỏe có chức năng tăng cường sức đề kháng cho cơ thể, đào thải những độc tố có hại giúp giảm thiểu nguy cơ hình thành các khối u trong cơ thể.

Ung Thư Cổ Tử Cung Có Gây Tử Vong Không? Và 15 Điều Cần Biết Về Ung Thư Cổ Tử Cung

Ung thư cổ tử cung là một bệnh ung thư tiến triển chậm nhưng có thể đe dọa đến tính mạng.

Các kỹ thuật sàng lọc hiện đại ngày nay giúp làm tăng khả năng phát hiện ra các tế bào tiền ung thư, nhờ đó có thể loại bỏ từ trước khi chúng có cơ hội phát triển thành ung thư.

Khi được chẩn đoán và điều trị từ sớm thì triển vọng sẽ rất khả quan.

Có nhiều cách để giảm nguy cơ mắc ung thư cổ tử cung hoặc phát hiện và điều trị sớm để ngăn bệnh tiến triển nặng hơn.

Hãy hỏi bác sĩ về các yếu tố nguy cơ và tần suất cần làm xét nghiệm sàng lọc.

Ung thư cổ tử cung là bệnh có thể gây tử vong. Đây là bệnh được xếp vào nhóm có tỷ lệ mắc và tử vong cao nhất trong số các bệnh ung thư. Theo số liệu ước tính, có hơn 300.000 ca tử vong do ung thư cổ tử cung nào năm 2018. Bệnh ung thư này xảy ra phổ biến hơn ở các nước kém phát triển trên thế giới. Tuy nhiên, số ca tử vong hiện nay đã giảm đáng kể so với trước đây.

Lý do mà ngày càng có ít người tử vong do ung thư cổ tử cung là nhờ phương pháp xét nghiệm Pap hay Pap smear (phết tế bào cổ tử cung).

Ung thư cổ tử cung là bệnh có thể chữa khỏi được, đặc biệt là khi phát hiện và điều trị ở giai đoạn đầu.

Giai đoạn ung thư tại thời điểm chẩn đoán sẽ quyết định hiệu quả điều trị và tiên lượng. Dù là bất cứ bệnh ung thư nào, càng được phát hiện sớm thì tiên lượng sẽ càng khả quan. Ung thư cổ tử cung là bệnh có tốc độ tiến triển chậm.

Xét nghiệm Pap có thể phát hiện các tế bào bất thường trên cổ tử cung trước khi chúng trở thành ung thư. Giai đoạn này được gọi là ung thư biểu mô tại chỗ (carcinoma in situ) hay ung thư cổ tử cung giai đoạn 0.

Việc loại bỏ các tế bào này có thể ngăn ngừa ung thư phát triển.

Sau khi các tế bào bất thường trở thành ung thư, ung thư cổ tử cung sẽ tiến triển qua 4 giai đoạn gồm có:

Giai đoạn 1: Tế bào ung thư có ở trên cổ tử cung và có thể đã lan vào tử cung.

Giai đoạn 2: Tế bào ung thư đã lan ra ngoài cổ tử cung và tử cung nhưng chưa tới thành vùng chậu và phần dưới của âm đạo.

Giai đoạn 3: Tế bào ung thư đã lan đến phần dưới của âm đạo, thành khung chậu hoặc đang lan đến thận.

Giai đoạn 4: Tế bào ung thư đã lan ra ngoài vùng chậu và đến niêm mạc bàng quang, trực tràng hoặc các cơ quan ở xa trong cơ thể.

Tỷ lệ sống tương đối 5 năm ở người bị chẩn đoán mắc ung thư cổ tử cung từ năm 2009 đến 2015 là:

Giai đoạn khu trú (tế bào ung thư giới hạn ở cổ tử cung và tử cung): 91.8%

Giai đoạn vùng (tế bào ung thư đã lan ra ngoài cổ tử cung và tử cung đến các khu vực lân cận): 56.3%

Giai đoạn xa (tế bào ung thư lan ra ngoài vùng chậu): 16.9%

Không phân biệt giai đoạn: 49%

Đây là tỷ lệ sống sót chung được tổng hợp dựa trên dữ liệu từ năm 2009 đến 2015. Các phương pháp điều trị ung thư đã có nhiều thay đổi và triển vọng sống của người bệnh cũng vì thế mà ngày càng tăng lên.

Ngoài giai đoạn tại thời điểm chẩn đoán thì còn có nhiều yếu tố khác quyết định đến tiên lượng bệnh.

Những yếu tố này gồm có:

Độ tuổi khi bệnh được chẩn đoán

Tình trạng sức khỏe, có đang mắc các bệnh khác như HIV hay không

Chủng HPV bị nhiễm

Loại ung thư cổ tử cung cụ thể

Mới mắc lần đầu hay ung thư tái phát

Thời gian bắt đầu điều trị

Chủng tộc cũng là một yếu tố quyết định tiên lượng khi mắc ung thư cổ tử cung. Phụ nữ da đen và Tây Ban Nha có tỷ lệ tử vong cao hơn so với những nhóm chủng tộc khác.

Bất cứ phụ nữ nào còn cổ tử cung đều có thể bị ung thư cổ tử cung, bao gồm cả những người gần đây không quan hệ tình dục, phụ nữ đang mang thai hoặc đã mãn kinh.

Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (American Cancer Society), ung thư cổ tử cung hiếm khi xảy ra ở phụ nữ dưới 20 tuổi và thường chủ yếu được chẩn đoán ở những người trong độ tuổi từ 35 đến 44.

Về chủng tộc, người gốc Tây Ban Nha có nguy cơ mắc ung thư cổ tử cung cao nhất, sau đó là người Mỹ gốc Phi, người châu Á và người da trắng.

Người Mỹ bản địa và thổ dân Alaska có nguy cơ thấp nhất.

Phần lớn các trường hợp ung thư cổ tử cung là do nhiễm HPV. HPV là loại vi-rút phổ biến nhất lây nhiễm ở hệ sinh dục. Hầu hết những người có quan hệ tình dục đều bị nhiễm vi-rút này vào một thời điểm nào đó.

HPV rất dễ lây truyền vì vi-rút này có thể lây qua tiếp xúc da ở bộ phận sinh dục. Do đó mà một người có thể nhiễm HPV ngay cả khi không quan hệ tình dục xâm nhập.

Trong hầu hết các trường hợp thì HPV sẽ tự biến mất trong vòng 2 năm sau khi vào cơ thể. Tuy nhiên, nếu vẫn tiếp tục quan hệ tình dục thì sẽ có thể bị tái nhiễm.

Chỉ một số rất ít người nhiễm HPV bị ung thư cổ tử cung nhưng gần như tất cả các trường hợp ung thư cổ tử cung là đều do vi-rút này gây ra.

Tuy nhiên không phải cứ nhiễm HPV là sẽ bị ung thư ngay. Có thể phải sau 15 đến 20 năm kể từ khi nhiễm vi-rút thì ung thư cổ tử cung mới phát triển hoặc ít nhất là 5 đến 10 năm đối với những người có hệ miễn dịch suy yếu.

Nguy cơ bị cổ tử cung sau khi nhiễm HPV thường tăng cao ở những người hút thuốc lá hoặc mắc các bệnh nhiễm trùng lây qua đường tình dục (STI) khác như chlamydia, lậu, hoặc herpes.

Có tới 9 trên 10 trường hợp ung thư cổ tử cung là ung thư biểu mô tế bào vảy. Loại ung thư này phát triển từ các tế bào vảy ở ngoài cổ tử cung – phần cổ tử cung nằm gần âm đạo nhất.

Hầu hết những trường hợp khác là ung thư biểu mô tuyến – loại ung thư phát triển trong các tế bào tuyến ở kênh cổ tử cung – phần cổ tử cung gần với tử cung.

Ung thư cổ tử cung cũng có thể là u lympho, ung thư tế bào hắc tố, sarcoma hoặc các loại hiếm gặp khác.

Kể tử khi có phương pháp xét nghiệm Pap smear, tỷ lệ tử vong do ung thư cổ tử cung đã giảm đáng kể.

Một trong những điều quan trọng nhất mà phụ nữ cần thực hiện để ngăn ngừa ung thư cổ tử cung là đi khám phụ khoa định kỳ và làm xét nghiệm Pap smear theo khuyến nghị của bác sĩ.

Các cách khác để giảm nguy cơ còn có:

Tiêm vắc-xin ngừa HPV

Điều trị nếu phát hiện thấy các tế bào tiền ung thư ở cổ tử cung

Làm xét nghiệm theo dõi khi xét nghiệm Pap cho kết quả bất thường hoặc xét nghiệm HPV có kết quả dương tính

Không hút thuốc lá

Ở giai đoạn đầu, ung thư cổ tử cung thường không biểu hiện triệu chứng nên nhiều trường hợp chỉ phát hiện ra khi bệnh đã tiến triển sang các giai đoạn sau. Đó là lý do tại sao cần làm xét nghiệm sàng lọc định kỳ.

Khi ung thư cổ tử cung tiến triển thì sẽ có các dấu hiệu, triệu chứng như:

Dịch tiết âm đạo có lượng, màu sắc, kết cấu hoặc mùi bất thường

Chảy máu âm đạo bất thường,ví dụ như chảy máu giữa chu kỳ kinh nguyệt, ra máu sau mãn kinh và quan hệ tình dục

Đau khi quan hệ tình dục

Đau vùng chậu và/hoặc thắt lưng

Đi tiểu nhiều

Đau khi tiểu/đại tiện

Tiểu tiện, đại tiện ra máu

Người mệt mỏi

Sụt cân không chủ đích

Tất nhiên, những triệu chứng này không phải lúc nào cũng là dấu hiệu chỉ ra ung thư cổ tử cung mà còn có thể là dấu hiệu của nhiều vấn đề sức khỏe khác. Do đó, cần đi khám để xác định chính xác nguyên nhân gây ra các triệu chứng.

Những người từ 21 đến 29 tuổi nên làm xét nghiệm Pap 3 năm một lần.

Những người từ 30 đến 65 tuổi nên làm xét nghiệm Pap và xét nghiệm HPV 5 năm một lần. Hoặc cũng có thể chỉ làm xét nghiệm Pap 3 năm một lần.

Với những người đã phẫu thuật cắt tử cung toàn phần (cắt cả tử cung và buồng trứng) vì những lý do khác không phải ung thư hoặc tiền ung thư thì không cần phải làm xét nghiệm Pap hay HPV nữa. Nếu chỉ cắt tử cung và còn cổ tử cung thì vẫn cần phải làm xét nghiệm sàng lọc.

Với những người trên 65 tuổi, không có các bệnh tiền ung thư trong 20 năm trở lại và đã làm xét nghiệm định kỳ trong 10 năm liên tục thì có thể ngừng sàng lọc ung thư cổ tử cung.

Tuy nhiên, sẽ cần làm xét nghiệm thường xuyên hơn nếu:

Thuộc nhóm có nguy cơ cao bị ung thư cổ tử cung.

Có kết quả xét nghiệm Pap bất thường.

Đã được chẩn đoán mắc các bệnh tiền ung thư cổ tử cung hoặc bị nhiễm HIV.

Trước đây đã từng điều trị ung thư cổ tử cung.

Nên nói chuyện với bác sĩ về nguy cơ mắc ung thư cổ tử cung để được tư vấn về tần suất sàng lọc phù hợp.

Bước đầu tiên thường là khám lâm sàng để đánh giá tình trạng sức khỏe tổng quát và các dấu hiệu bệnh. Xét nghiệm HPV và xét nghiệm Pap có thể được thực hiện cùng lúc trong quá trình thăm khám.

Mặc dù xét nghiệm Pap smear có thể phát hiện các tế bào bất thường nhưng lại không thể xác nhận các tế bào này có phải là ung thư hay không. Để xác nhận thì sẽ cần đến phương pháp sinh thiết cổ tử cung.

Bằng kỹ thuật nạo kênh cổ tử cung (endocervical curettage), bác sĩ lấy một mẫu mô nhỏ từ kênh cổ tử cung.

Thủ thuật này có thể được thực hiện một mình hoặc kết hợp với soi cổ tử cung, trong đó bác sĩ sử dụng máy soi cổ tử cung để quan sát bên trong âm đạo và cổ tử cung.

Có thể sẽ cần sinh thiết chóp để lấy một mẫu mô lớn hơn ở cổ tử cung. Đây là một thủ thuật được thực hiện bằng dao mổ hoặc laser và bệnh nhân có thể về nhà ngay sau khi hoàn tất.

Mẫu mô thu được sau đó sẽ được kiểm tra dưới kính hiển vi để tìm các tế bào ung thư.

Điều này là hoàn toàn có thể. Lý do là bởi xét nghiệm Pap chỉ cho biết có tế bào ung thư hoặc tiền ung thư ở thời điểm làm xét nghiệm hay không. Dù bây giờ có kết quả bình thường thì sau này vẫn hoàn toàn có thể xuất hiện các tế bào bất thường.

Tuy nhiên, nếu xét nghiệm Pap cho kết quả bình thường và kết quả xét nghiệm HPV âm tính thì khả năng bị ung thư cổ tử cung trong vài năm tiếp theo là rất thấp.

Khi có kết quả xét nghiệm Pap bình thường nhưng xét nghiệm HPV dương tính với thì sẽ cần lam xét nghiệm theo dõi để phát hiện sớm các thay đổi. Mặc dù vậy nhưng thường thì sẽ không cần phải làm xét nghiệm thêm trong vòng 1 năm sau đó.

Ung thư cổ tử cung là bệnh ung thư phát triển chậm nên miễn là làm xét nghiệm theo dõi thường xuyên thì cũng không có gì đáng lo ngại cả.

Sau khi có chẩn đoán ung thư cổ tử cung thì bước tiếp theo là xác định giai đoạn hay phạm vi lan rộng của tế bào ung thư.

Để xác định giai đoạn thì sẽ cần tiến hành các phương pháp chẩn đoán hình ảnh nhằm xác định vị trí của của tế bào ung thư. Hoặc cũng có thể phải phẫu thuật thì bác sĩ mới có thể xác định được chính xác giai đoạn ung thư.

Phác đồ điều trị ung thư cổ tử cung sẽ phụ thuộc vào phạm vi của tế bào ung thư. Các phương pháp phẫu thuật để điều trị ung thư cổ tử cung gồm có:

Khoét chóp cổ tử cung: loại bỏ các tế bào ung thư từ cổ tử cung.

Cắt tử cung toàn phần: cắt cổ tử cung và tử cung.

Cắt tử cung triệt căn: cắt bỏ cổ tử cung, tử cung, một phần của âm đạo, một số dây chằng và mô xung quanh. Có thể sẽ cần cắt cả buồng trứng, ống dẫn trứng và các hạch bạch huyết lân cận.

Cắt tử cung triệt căn giữ nguyên buồng trứng: cắt cổ tử cung, tử cung, phần trên của âm đạo, một số dây chằng và mô xung quanh, có thể cần cắt cả các hạch bạch huyết lân cận.

Cắt cổ tử cung triệt căn: cắt bỏ cổ tử cung, mô và hạch bạch huyết gần đó cùng với phần trên của âm đạo.

Cắt buồng trứng – vòi trứng: cắt bỏ buồng trứng và vòi trứng (ống dẫn trứng).

Cắt tạng vùng chậu: cắt bỏ bàng quang, phần dưới của đại tràng, trực tràng, cổ tử cung, âm đạo, buồng trứng và các hạch bạch huyết xung quanh. Sẽ cần mở lỗ thông ra da để đảo thải nước tiểu và phân ra ngoài.

Các phương pháp điều trị ung thư cổ tử cung khác còn có:

Xạ trị: sử dụng tia phóng xạ để tiêu diệt các tế bào ung thư và ngăn chúng phát triển trở lại.

Hóa trị: dùng thuốc điều trị cho toàn cơ thể (hóa trị toàn thân) hoặc tiêm trực tiếp vào khối u (hóa trị vùng) để tiêu diệt các tế bào ung thư.

Liệu pháp nhắm trúng đích: dùng các loại thuốc chỉ nhắm đến và tấn công tế bào ung thư mà không ảnh hưởng đến các tế bào khỏe mạnh.

Liệu pháp miễn dịch: dùng các loại thuốc giúp hệ miễn dịch chống lại ung thư.

Thử nghiệm lâm sàng: thử các phương pháp điều trị mới chưa được chính thức phê chuẩn đưa vào sử dụng.

Chăm sóc giảm nhẹ: chỉ điều trị các triệu chứng của bệnh để cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.

Ung thư cổ tử cung là bệnh có thể chữa khỏi, đặc biệt là khi được chẩn đoán và điều trị ở giai đoạn đầu.

Cũng như các loại ung thư khác, ung thư cổ tử cung có thể quay trở lại sau khi điều trị. Bệnh có thể tái phát ở gần cổ tử cung hoặc một vị trí khác trong cơ thể. Do đó mà bệnh nhân sẽ cần đi tái khám để theo dõi các dấu hiệu ung thư tái phát.