Tình Hình Ung Thư Tại Việt Nam / Top 13 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Sept.edu.vn

Tình Hình Ung Thư Tại Việt Nam Rất Nghiêm Trọng

Đây là thông điệp được nêu trong suốt cuộc hội thảo “Tiếp cận điều trị ung thư hiệu quả và đáp ứng khả năng chi trả” do Bộ Y tế tổ chức ngày 12/4 tại Hà Nội.

Theo số liệu từ điều tra toàn quốc về gánh nặng bệnh tật ở Việt Nam cho thấy 74,3% gánh nặng bệnh tật là do các bệnh không lây nhiễm, trong đó ung thư là một trong 10 nguyên nhân gây gánh nặng bệnh tật hàng đầu.

Hiện nay ở Việt Nam, 10 bệnh ung thư phổ biến ở nam giới là phổi, dạ dày, gan, đại trực tràng, thực quản, vòm, hạch, máu, tuyến tiền liệt và ung thư bàng quang. 10 bệnh ung thư phổ biến ở nữ giới là ung thư vú, đại trực tràng, phổi, cổ tử cung, dạ dày, tuyến giáp, gan, buồng trứng, hạch và ung thư máu. Tổng gánh nặng trực tiếp của 6 bệnh ung thư (ung thư vú, cổ tử cung, gan, đại trực tràng, dạ dày, khoang miệng) ước tính chiếm 0,22% tổng GDP của Việt Nam năm 2012…

Trước tình hình trên, Chiến lược quốc gia phòng chống ung thư 2011-2015 đã tiến hành sàng lọc, phát hiện sớm bệnh cho 532.000 người đối với các loại ung thư như ung thư vú, cổ tử cung, đại trực tràng, ung thư khoang miệng. Kết quả khám lâm sàng tuyến vú có bất thường là trên 20%, tỷ lệ phát hiện ung thư vú là 63,7/100.000 phụ nữ. Kết quả xét nghiệm tế bào học có tỷ lệ bất thường chiếm 53-75%, tỷ lệ ung thư cổ tử cung phát hiện qua khám sàng lọc là 22,6/100.000 phụ nữ. Tỷ lệ phát hiện các tổn thương bất thường ở khoang miệng (chủ yếu là viêm nhiễm) chiếm 10-13% và tỷ lệ phát hiện ung thư khoang miệng qua khám sàng lọc là 15/100.000 dân…

Đồng thời, mạng lưới chẩn đoán, điều trị được phát triển ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Tuy nhiên, hoạt động phát triển kỹ thuật cao mới chỉ tập trung tại bệnh viện tuyến Trung ương và nhiều kỹ thuật cao vẫn chưa được thực hiện tại Việt Nam. Việc kê đơn, quản lý thuốc giảm đau còn nhiều bất cập, đặc biệt tại tuyến cơ sở; chưa triển khai được chăm sóc tại nhà; điều trị thể chất là chủ yếu, thiếu hỗ trợ tâm lý, xã hội.

Tình Hình Ung Thư Phổi Hiện Nay Ở Việt Nam Như Thế Nào ?

Ung thư phổi là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở nam giới và hàng thứ 3 ở nữ giới. Vậy tình hình ung thư phổi hiện nay ở Việt Nam như thế nào ?

Hiện nay đã có những số liệu ghi nhận về ung thư tương đối chính xác và có thể đại diện cho tình hình ung thư của cả nước. Theo số liệu về tỷ lệ ung thư ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn từ năm 1995 – 1996, và từ đó ước tính chung tỷ lệ mắc ung thư ở Việt Nam năm 2000, nam giới có khoảng 36.021 người mắc ung thư phổi chiếm tỷ lệ 91,5/100.000 dân và ở nữ giới có khoảng 32.786 người mắc ung thư phổi, chiếm tỷ lệ 81,5/100.000 dân. Như vậy, cứ 100.000 dân thì sẽ có 91 nam giới mắc ung thư phổi và có 81 nữ giới mắc ung thư phổi. Ung thư phổi là bệnh lý ung thư đứng hàng đầu ở nam giới. Ước tính cả nước hàng năm có khoảng 6.905 ca ung thư phổi mới mắc. Trong số các trường hợp ung thư phổi nhập viện, 62,5% không còn khả năng phẫu thuật. Tại Khoa hô hấp bệnh viện Bạch Mai, số các trường hợp ung thư phổi nhập viện tăng đều hàng năm: 1969 đến 1972 có 89 trường hợp ung thư phổi, từ 1974 đến 1978 có 186 trường hợp, từ 1981 đến 1985 có 285 trường hợp, từ 1996 đến 2000 có 639 trường hợp, chiếm 16,6% tổng số các bệnh nhân điều trị, đứng hàng thứ 2 (sau bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính). Tóm lại, ung thư phổi trên thế giới nói chung và cũng như ở Việt Nam nói riêng là bệnh phổ biến trong tất cả các loại ung thư. Đây là bệnh có tiên lượng xấu bởi tiến triển nhanh, di căn sớm, phát hiện bệnh thường ở giai đoạn muộn. Do vậy khả năng điều trị ngoại khoa cũng như các biện pháp điều trị khác rất hạn chế. Việc điều trị ung thư phổi vẫn còn là một vấn đề nan giải, ít tiến bộ so với các loại ung thư khác nên cần quan tâm chẩn đoán sớm và tăng cường công tác dự phòng. TS. Nguyễn Thanh Hồi – Giám đốc Bệnh viện đa khoa quốc tế Hải Phòng Trích dẫn: Ngô Quý Châu, Chu Thị Hạnh, Nguyễn Thanh Hồi và cộng sự; “Ung thư phổi”. Nhà xuất bản Y học (2009)

Báo Động Tình Trạng Trẻ Hóa Căn Bệnh Ung Thư Ở Việt Nam

Ung thư là một căn bệnh nguy hiểm hiện chưa có thuốc điều trị đặc hiệu. Tuy nhiên tình trạng mắc ung thư ở Việt Nam hiên nay đang có dấu hiệu tăng nhanh và trẻ hóa . Đây là một thực tế đáng lo ngại tại Việt Nam. Theo thống kê ngày càng có nhiều hơn số người mắc ung thư trong độ tuổi 20 và trẻ em. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là lối sống thiếu lành mạnh, thực phẩm không an toàn, môi trường sống ô nhiễm.

Theo đó, tại các cơ sở điều trị ung bướu tại Hà Nội, chúng tôi tiếp nhận ngày càng nhiều hơn số người mắc ung thư. Thậm chí, ung thư phổi còn gặp cả ở phụ nữ dưới 40 tuổi, trường hợp mắc bệnh hiếm gặp trước đây. Với bệnh nhi, ngoài ung thư máu có số mắc nhiều, còn phải kể đến ung thư hạch, thậm chí có em gái bị ung thư buồng trứng…

TS. BS. Trần Đăng Khoa, Giám đốc Bệnh viện Ung bướu Hà Nội cho biết, trong những năm gần đây, lượng bệnh nhân mắc ung thư điều trị tăng từ 30 – 40%. Trong đó, tỷ lệ tăng này bao gồm cả về số lượng, các loại bệnh và trẻ hóa “Điều bất ngờ là có những căn bệnh ung thư vốn chỉ xảy đến với người lớn tuổi thì nay lại xuất hiện ở những bệnh nhân trẻ, thậm chí rất trẻ. Bệnh viện cũng đã từng điều trị cho những bệnh nhân mắc ung thư vòm họng, ung thư dạ dày ở độ tuổi lên 9”, BS. Khoa cho hay. Đáng lưu ý gần đây, tỷ lệ bệnh nhân trẻ tuổi mắc ung thư tuyến giáp tăng đột biến, đa phần ở quãng từ 20 – 30 tuổi.

Theo khảo sát của Viện Nghiên cứu phòng chống ung thư, trong 15 năm qua, hầu hết các loại ung thư ở Việt Nam đều gia tăng. Nếu như năm 2000, Việt Nam chỉ có khoảng 69.000 ca mắc ung thư thì tới năm 2010, con số này đã tăng gần gấp đôi lên 126.000 ca. Ước tính vào năm 2023, số mắc ung thư sẽ gần 200.000 ca. Với nam giới, phổ biến là các dạng ung thư: Phổi, dạ dày, đại – trực tràng, thực quản… còn nữ giới là ung thư: Vú, đại – trực tràng, dạ dày, tuyến giáp, cổ tử cung.

Theo GS. Nguyễn Bá Đức, Phó chủ tịch Hội Ung thư Việt Nam, trước đây, đa phần các loại ung thư ở Việt Nam thường xuất hiện ở người 60-70 tuổi, thì hiện nay các bệnh viện chuyên khoa ung bướu đã tiếp nhận nhiều bệnh nhân trẻ tuổi. Chính tỷ lệ phát hiện ung thư giai đoạn muộn (giai đoạn 3, 4) chiếm tới 70% các ca ung thư đến khám và điều trị, do vậy, tỷ lệ tử vong vì ung thư rất cao. Cùng với đại dịch ung thư, tình trạng trẻ hóa trở thành nỗi ám ảnh với bao gia đình, là nỗi lo lắng với cộng đồng và gánh nặng cho xã hội

Mặt khác, theo ông Đức, thói quen ăn uống, cách thức chế biến thức ăn cũng là tác nhân dẫn đến ung thư. Ví như ăn nóng quá, mặn quá cũng là tác nhân gây một số loại ung thư đường tiêu hóa. Hay ăn nhiều chất béo, mỡ động vật làm tăng tỉ lệ mắc ung thư vú, đại trực tràng, tuyến tiền liệt.

Việc chế biến thức ăn bằng cách chiên, rán, nướng trên than ở nhiệt độ cao hay ăn dưa, cà muối cũng phát sinh độc tố gây ung thư, do đó “Thay đổi thói quen ăn, uống, sinh hoạt một cách lành mạnh, khoa học và đặc biệt là cần phải loại trừ, tẩy chay thực phẩm “bẩn” chính là cách phòng tránh phần lớn yếu tố gây ung thư”, GS. Đức khuyến cáo.

Để hạn chế tình trạng ung thư chúng ta cần thực hiện nếp sống lành mạnh, tự trang bị kiến thức, có ý thức tự bảo vệ sức khỏe của chính mình trước khi quá muộn.

Báo Động: Ung Thư Vú Tại Việt Nam.

Trong 15 năm qua tại Việt Nam, số phụ nữ mắc bệnh ung thư vú đã vượt qua ung thư cổ tử cung và sẽ tiếp tục tăng cao trong những năm tới. Theo thống kê, phần lớn ung thư vú xảy ra ở độ tuổi 35 – 45, tuy nhiên ngay cả những phụ nữ độ tuổi từ 20 – 30 cũng có thể mắc bệnh và càng cao tuổi thì nguy cơ mắc bệnh càng cao.

Việc phát hiện sớm có ý nghĩa rất lớn trong điều trị ung thư vú. Nếu phát hiện ở giai đoạn đầu, cơ hội chữa khỏi bệnh lên tới hơn 80%, ở giai đoạn 2, tỉ lệ này sẽ là 60%, sang giai đoạn 3 khả năng khỏi hẳn thấp và đến giai đoạn 4 thì thường việc điều trị chỉ để kéo dài cuộc sống, giảm bớt các triệu chứng đau đớn. Như vậy, ung thư vú hoàn toàn có thể ngăn ngừa và chữa khỏi nếu được phát hiện sớm và điều trị kịp thời, đồng thời đảm bảo khả năng nuôi con bằng sữa mẹ sau này.

Cấu tạo tuyến vú khỏe mạnh

Để bảo vệ chính mình, chị em phải tự kiểm tra vú hàng ngày, khám vú định kỳ mỗi 6 tháng hay 1 năm hoặc ngay khi phát hiện có bất thường phải đến ngay các chuyên khoa ung bướu, trung trâm chăm sóc nhũ các để có giải pháp điều trị kịp thời. Điều đáng lo là nhiều chị em chưa biết cách tự chăm sóc, tự kiểm tra vú, thậm chí không xem trọng hoặc thiếu quan tâm đến những bất thường ở vú. Theo thống kê, đa số bệnh nhân ung thư vú tìm đến điều trị khi đã ở giai đoạn muộn (khối u ung thư đã phát triển quá lớn hoặc đã di căn sang những bộ phận khác trong cơ thể) nên khả năng chữa khỏi hoàn toàn rất thấp, vì ở giai đoạn sớm, bệnh thường không có các biểu hiện rõ rệt và không gây đau đớn. Chỉ đến khi khối u tiến triển, người bệnh mới thấy có các triệu chứng: da vú sưng đỏ, tróc vảy, sưng phồng hoặc lõm xuống, đau vú, đau núm vú, núm vú bị thụt vào, da vú dày hơn, núm vú có dịch tiết ra nhưng không phải là sữa, khối u cứng và khó di động….

Chị em phụ nữ cần cảnh giác khi phát hiện bất kỳ khối u nào ở tuyến vú của mình. Vấn đề cần thiết tiếp theo là phải được xác định rõ: khối u có phải là u ác tính (ung thư) không? Một số phụ nữ trẻ thì thờ ơ, chủ quan vì nghĩ rằng bệnh ung thư vú ít có ở người trẻ tuổi. Đây là một quan niệm sai lầm

Kỹ thuật viên đang hướng dẫn bệnh nhân để chuẩn bị chụp MRI chuyên biệt vú

Tại Việt Nam, các kỹ thuật chẩn đoán y khoa về ung thư vú có siêu âm, chụp X-quang nhũ ảnh, chụp CT, PET-CT và cuối cùng là sinh thiết FNA. Sinh thiết giúp xét nghiệm ung thư vú chính xác nhất, tuy nhiên độ đặc hiệu của sinh thiết còn hạn chế. Thực hiện sinh thiết FNA bằng cách đưa một kim nhỏ vào khối u dưới sự hướng dẫn của siêu âm, để hút một mẫu mô nhỏ đem soi dưới kính hiển vi để tìm tế bào ung thư. Có một rủi ro nhỏ có thể xảy ra trong kỹ thuật FNA hiện nay là sinh thiết nhầm mẫu mô lành thay vì mô của khối u nghi ung thư.

Thống kê cũng cho thấy ung thư vú có nguy cơ xảy ra ở người lớn tuổi, phụ nữ tuổi mãn kinh nhiều hơn ở người trẻ, trong độ tuổi này khi phát hiện khối u bất thường ở vú (u nang nước, u sợi bọc tuyến vú, u lao, u mỡ, khối tụ máu, viêm vú, viêm giãn ống dẫn sữa) thì nguy cơ ung thư vú cao. Nhiều người hay nghĩ khối u ung thư vú phải cứng, không di động, đau. Thật khó xác định nếu khối u ở phần sâu, kích thước nhỏ và thành ngực người phụ nữ dày. Bà L.T.N (57 tuổi ngụ tại Thủ Đức) do tự tìm hiểu, bà biết được cách chăm sóc và kiểm tra vú hằng ngày từ nhiều năm nay, vú của bà khi kiểm tra bình thường vẫn mềm mại không phát hiện ra khối u hay có bất cứ dấu hiệu nào của bệnh lý, nhưng do lớn tuổi vì muốn tầm soát bệnh bà đã đến TT Chăm Sóc Nhũ Hoàn Mỹ xin được tầm soát ung thư vú, bằng máy MRI chuyên biệt vú đã phát hiện nằm ẩn phía sâu bên trong vú trái của bà có 1 khối u rất nhỏ cho kết quả là u ác tính. Điều này đáng báo động!

Sau hơn 1 tháng khai trương TT Nhũ Hoàn Mỹ đã đón tiếp, chăm sóc cho hơn 1.000 chị em có bệnh lý về vú, phát hiện rất nhiều “ca khó” đặc biệt là các ca “hậu đặt túi ngực thẩm mỹ”. Đơn cử là chị C.N.T (40 tuổi, HCM) đặt túi ngực cách đây 5 năm. Một năm sau, chị bị viêm sưng đau ngực trái, đi thăm khám và điều trị nhiều nơi nhưng tình trạng viêm đau ngày càng nặng và kéo dài hơn 4 năm. Chị T đến TT Nhũ Hoàn Mỹ với vú trái sưng nề, đỏ căng cứng to hơn 30% so với vú phải. Tại đây, chị được khám và chụp MRI chuyên biệt vú. Kết quả cho thấy, túi ngực bị vỡ nhiều chỗ, dịch túi ngực rò rỉ xâm nhập vào mô ngực gây viêm nhiễm mãn tính và cấp tính. Đây là nguyên nhân chính gây ra tình trạng viêm nhiễm, sưng đau kéo dài 4 năm mà kỹ thuật siêu âm hay chụp X-Quang nhũ ảnh thông thường không phát hiện được. Trung Tâm tư vấn về tình trạng bệnh lý, hướng xử lý điều trị. Được biết, chị sẽ qua Thái Lan, nơi đặt túi ngực 5 năm trước, để được can thiệp.

MRI chuyên biệt vú truy tìm khối u ung thư nhỏ đến 1mm và dịch túi ngực bị rò rỉ suốt 4 năm

Với công nghệ mới tầm soát phát hiện sớm ung thư vú: chụp MRI chuyên biệt vú bằng máy Aurora Dedicated Breast MRI 1.5 Tesla cho ra độ chính xác lên đến 99%. Hiện nay MRI chuyên biệt vú được xem là “tiêu chuẩn vàng” trong chẩn đoán, phát hiện bệnh sớm ung thư vú trên thế giới, thiết bị phát hiện được cả những khối u có kích thước nhỏ đến 0,1cm, cộng với phần mềm xử lý hình ảnh chuyên dụng loại bỏ những hình ảnh nhiễu như mô mỡ… chỉ để lại hình ảnh khối u cần quan sát của vú. Ngoài ra, máy MRI chuyên biệt vú có tích hợp hệ thống sinh thiết giúp định vị chính xác tọa độ khối u cần xét nghiệm trong lúc chụp với độ đặc hiệu lên đến 98%! Điều này đã khắc phục được sai sót trong kỹ thuật sinh thiết FNA. Đặc biệt hơn cả là máy có thể chụp 2 vú và vùng nách cùng một lúc mà máy MRI toàn thân không thể làm được, giúp tiết kiệm chi phí cho chị em khi có nhu cầu cần tầm soát phòng bệnh. Hiện nay TT Nhũ Hoàn Mỹ là trung tâm chuyên biệt đầu tiên và duy nhất tại Việt Nam chẩn đoán, điều trị các bệnh lý về vú, đặc biệt tầm soát phát hiện sớm ung thư vú được trang bị thiết bị hiện đại nhất Đông Nam Á: Aurora Dedicated Breast MRI 1.5T, máy xquang vú Brestige, siêu âm vú 4D, quản lý bệnh án điện tử…. chi phí đầu tư lên đến 2 triệu đô.