Nguyên Nhân Gây Ung Thư Ruột / Top 6 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Sept.edu.vn

Kháng Sinh Có Thể Là Nguyên Nhân Gây Ung Thư Ruột

Theo một nghiên cứu đăng tải trên tạp chí Đường ruột (Gut), dùng kháng sinh lâu dài trong thời gian trưởng thành có thể tăng nguy cơ phát triển ung thư ruột. Nghiên cứu này một lần nữa nhấn mạnh vai trò sống còn của hệ vi sinh vật đường ruột đối với con người.

Năm 2017, có khoảng 95,520 ca ung thư đại tràng và 39,910 ca ung thư trực tràng mới tại Mỹ.

Những yếu tố nguy cơ gây ung thư ruột bao gồm: ít vận động, ăn ít hoa quả và rau xanh, thừa cân hoặc béo phì, uống rượu. Đặc biệt, theo một nghiên cứu gần đây, việc sử dụng kháng sinh lâu dài cũng có thể là yếu tố nguy cơ gây ra ung thư ruột.

Mối liên hệ giữa kháng sinh và nhiều tình trạng bệnh đã được nhắc đến những năm gần đây. Các bệnh này bao gồm: bệnh ruột kích thích, bệnh Celiac (không dung nạp gluten) và béo phì.

Kháng sinh không chỉ tiêu diệt và ngăn chặn vi khuẩn có hại, mà còn có ảnh hưởng lên hệ vi sinh vật đường ruột. Khi sử dụng kháng sinh, số lượng và các chủng vi khuẩn trong ruột sẽ bị thay đổi, và điều này có thể dẫn tới những quá trình chuyển hóa hoặc bệnh lý bên trong cơ thể.

Kháng sinh và bệnh ung thư ruột

Do vậy, một nhóm các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu cụ thể hơn về mối quan hệ giữa việc sử dụng kháng sinh dài ngày và nguy cơ ung thư ruột. Họ sử dụng dữ liệu từ Nghiên cứu Sức khỏe của Y tá, một dự án quản lý 121,799 y tá tại Hoa Kỳ kể từ năm 1976. Các đối tượng là phụ nữ trong tầm tuổi từ 30 tới 55.

Cứ 2 năm một lần, các tình nguyện viên sẽ điền bảng câu hỏi về thông tin nhân khẩu chung, lối sống (hút thuốc lá, tập thể dục,…), bệnh sử và sự phát triển của bệnh. Cứ 4 năm một lần, họ sẽ hoàn thành một bảng câu hỏi về chế độ dinh dưỡng.

Trong nghiên cứu này, các nhà khoa học dùng dữ liệu từ 16,642 phụ nữ từ 60 tuổi trở lên vào năm 2004. Nhóm phụ nữ này có thể cung cấp thông tin về việc sử dụng kháng sinh từ khi họ 20 tới 59 tuổi và cũng từng được nội soi ruột từ năm 2004 tới 2010.

Xuyên suốt quá trình điều tra, 1,195 ca u tế bào tuyến đã được chẩn đoán. U tế bào tuyến, hay còn gọi là bệnh polyp, là những khối u lành thường xuất hiện trước phần lớn ca ung thư ruột.

Kháng sinh tăng nguy cơ u tế bào tuyến

Mối quan hệ này vẫn rất rõ rệt bất kể u tế bào tuyến có nguy cơ cao hay thấp dẫn tới ung thư ruột. Mặc dù vậy, kết quả cho thấy người dùng kháng sinh dài ngày có nguy cơ u tuyến ở đại tràng gần nhiều hơn hơn u tuyến ở đại tràng xa.

Đại tràng gần là phần đầu tiên của đại tràng, liền sau ruột non, gồm manh tràng, đại tràng lên, đại tràng góc gan, đại tràng ngang và đại tràng góc lách. Đại tràng xa là phần nối với trực tràng, gồm đại tràng xuống và đại tràng sigma.

Dữ liệu cho thấy rằng những phụ nữ đã từng dùng kháng sinh trong tối thiểu 2 tháng liên tiếp khi họ tầm 40, 50 tuổi có nguy cơ bị u tuyến cao hơn 69% so với những người không dùng kháng sinh dài ngày trong giai đoạn này.

Một lần nữa, mối liên hệ này vẫn rõ rệt bất kể u tuyến có nguy cơ dẫn tới ung thư cao hay thấp, và rõ rệt hơn ở đại tràng gần.

Tương tự, những phụ nữ không dùng kháng sinh từ 20 tới 50 tuổi giảm 73% nguy cơ bị u tuyến so với những người đã dùng kháng sinh trên 15 ngày liên tiếp.

Mặc dù nghiên cứu này được thực hiện trên quy mô lớn nhưng vẫn còn một số hạn chế. Thứ nhất, nghiên cứu chỉ là quan sát nên rất khó để đưa ra kết luận chắc chắn về quan hệ nhân quả giữa dùng kháng sinh dài ngày và nguy cơ ung thư ruột. Thứ hai, một vài ca u tuyến có thể xuất hiện trước khi người bệnh dùng kháng sinh. Thứ ba, bản thân loại vi khuẩn phát triển tốt sau khi dùng kháng sinh cũng thường gây ra viêm ruột, và cũng là một yếu tố nguy cơ gây ung thư ruột.

Mặc dù còn nhiều việc phải làm, có một giải thích sinh lý phù hợp cho mối liên hệ giữa kháng sinh và ung thư ruột: kháng sinh rõ ràng sẽ tiêu diệt các chủng vi khuẩn và thay đổi toàn bộ cấu trúc hệ vi sinh vật đường ruột. Điều này liên hệ tới kết quả của một nghiên cứu trước đó: các bệnh nhân ung thư ruột bị suy giảm và tăng lên một số chủng vi khuẩn nhất định trong hệ vi sinh vật đường ruột.

Nhóm tác giả kết luận: “Nếu được tái khẳng định trong các nghiên cứu khác, những phát hiện này sẽ đặt ra vấn đề giới hạn sử dụng kháng sinh và đánh giá được các nguồn gây viêm có thể dẫn tới hình thành khối u.”

Việc sử dụng kháng sinh tại Mỹ và nhiều nước trên thế giới đang gia tăng nhanh hiện nay. Do vậy, nghiên cứu này lại càng trở nên quan trọng hơn. Những hệ lụy của việc sử dụng kháng sinh rất cần được chứng minh cụ thể trong tương lai.

Nguồn tham khảo

Nguyên Nhân Gây Ung Thư

“Bộ điều khiển” ung thư

Các đột biến di truyền góp phần gây ra ung thư có xu hướng ảnh hưởng đến ba loại gen chính gồm gen tiền ung thư, gen ức chế khối u và gen sửa chữa ADN. Những thay đổi này đôi khi được gọi là “bộ điều khiển” của ung thư.

Các gen sửa chữa ADN có chức năng sửa chữa các ADN bị hư hỏng. Tế bào có đột biến tại các gen này có xu hướng phát triển các đột biến bổ sung ở các gen khác. Kết hợp với nhau, những đột biến này có thể khiến các tế bào trở thành ung thư.

Khi tìm hiểu về những thay đổi dẫn đến ung thư, người ta đã phát hiện ra rằng một số đột biến cụ thể thường xảy ra ở nhiều loại ung thư. Do đó, bệnh ung thư đôi khi được đặc trưng bởi các dạng đột biến di truyền, không chỉ bởi vị trí chúng phát triển trong cơ thể mà còn cách tế bào ung thư thể hiện dưới kính hiển vi.

Ung thư di căn

Ung thư lây lan từ nơi mà nó bắt đầu đến một nơi khác trong cơ thể được gọi là ung thư di căn, chúng có cùng tên và loại tế bào với ung thư ban đầu (ung thư nguyên phát). Ví dụ, ung thư vú di căn đến và hình thành một khối u di căn trong phổi là ung thư vú di căn, không phải ung thư phổi.

Dưới kính hiển vi, các tế bào ung thư di căn thường trông giống như các tế bào của ung thư ban đầu. Hơn nữa, tế bào ung thư di căn và tế bào của ung thư ban đầu thường có một số đặc điểm chung, chẳng hạn như một số thay đổi nhiễm sắc thể.

Điều trị có thể giúp kéo dài cuộc sống của một số bệnh nhân ung thư di căn. Mặc dù vậy, mục tiêu chính của các phương pháp điều trị ung thư di căn là kiểm soát sự phát triển của ung thư hoặc làm giảm các triệu chứng do ung thư gây ra. Các khối u di căn có thể gây tổn hại nghiêm trọng đến quá trình hoạt động của cơ thể, hầu hết trường hợp tử vong do ung thư đều chết vì bệnh di căn.

Mô biến đổi

Tăng sản xảy ra khi các tế bào trong mô phân chia nhanh hơn bình thường và tích tụ hoặc tăng sinh, tuy nhiên các tế bào và cách tổ chức mô trông bình thường dưới kính hiển vi. Tăng sản có thể do một số yếu tố hoặc bệnh gây ra, bao gồm cả kích ứng mãn tính.

Loạn sản là một tình trạng nghiêm trọng hơn tăng sản. Trong loạn sản, cũng có sự tích tụ của các tế bào phụ trội. Nhưng các tế bào trông không bình thường và có những thay đổi trong cách tổ chức mô. Nói chung, các tế bào và mô trông càng bất thường thì nguy cơ hình thành ung thư càng cao.

Một số loại loạn sản có thể cần được theo dõi hoặc điều trị. Một ví dụ về chứng loạn sản là một nốt ruồi bất thường (được gọi là nốt ruồi loạn sản) hình thành trên da ,ví dụ như ung thư hắc tố. Một khối u loạn sản có thể chuyển thành u ác tính, mặc dù hầu hết lành tính.

Một tình trạng thậm chí còn nghiêm trọng hơn là ung thư biểu mô tại chỗ. Mặc dù đôi khi được gọi là ung thư, ung thư biểu mô tại chỗ không phải là ung thư vì các tế bào bất thường không lan ra ngoài mô ban đầu, chúng không xâm lấn mô lân cận như cách mà các tế bào ung thư làm. Tuy nhiên, vì một số ung thư biểu mô tại chỗ có thể trở thành ung thư, chúng thường được điều trị.

Tài liệu tham khảo

National Cancer Institute. What is Cancer?. Retrieved July 14, 2020 from https://www.cancer.gov/about-cancer/understanding/what-is-cancer

Nguyên Nhân Gây Ung Thư Da

Bạn biết gì về bệnh ung thư da?

Theo y khoa hiện đại, bệnh ung thư da là do sự tăng trưởng bất thường của tế bào da. Có ba loại chính là ung thư tế bào đáy, ung thư tế bào vảy và ung thư tế bào hắc tố. Khi da bị tấn công, các tế bào da tăng đột biến một cách không kiểm soát được, tạo thành khối u. Những khối u ác tính thường không có khả năng lây lan sang các bộ phận khác của cơ thể. Chúng có thể gây biến dạng cục bộ nếu không được điều trị sớm. Tuy nhiên những hắc tố ác tính như melanoma lại là bệnh ung thư có xu hướng lây lan đến các bộ phận khác của cơ thể. Muốn biết chính xác cần phải thực hiện các xét nghiệm cần thiết.

Ung thư da không phải là bệnh quá nguy hiểm và có thể chữa khỏi nếu phát hiện sớm các triệu chứng. Tuy nhiên, khi đã chuyển sang di căn thì khả năng bệnh lành là rất thấp.

Những nguyên nhân tiềm ẩn gây nên bệnh ung thư da

Tia tử ngoại

Theo thống kê hơn 90% các trường hợp ung thư da được gây ra bởi tia cực tím của mặt trời. Đối với trẻ em, việc tiếp xúc trực tiếp với tia UV quá nhiều có thể gây nên những tổn thương nghiêm trọng nhưng không biểu hiện ra ngoài sau nhiều nhiều năm.

Tiếp xúc nhiều với ánh sáng nhân tạo

Việc thường xuyên sử dụng đèn chiếu sáng trên sân khấu và đèn ngủ cũng có thể tăng khả năng phát triển ung thư da. Nên hạn chế tối đa các loại đèn ngủ quá sáng hoặc sử dụng trong thời gian dài.

Những tổn thương về da

Những vùng da đã từng bị bỏng hoặc có thời gian dài bị viêm nhiễm có nguy cơ cao trong việc phát triển ung thư biểu bì tế bào có vảy.

Yếu tố di truyền

Một số người do yếu tố di truyền hiếm gặp có nguy cơ ung thư da cao hơn. Tuy nhiên, ung thư da không ác tính không được hình thành bởi lỗi gen di truyền do đó không thể truyền cho các thành viên khác trong gia đình bạn, vì vậy các thành viên khác trong gia đình bạn không thuộc đối tượng có nguy cơ cao về phát triển ung thư da.

Nguyên nhân khác

Tiếp xúc với hóa chất độc hại trong thời gian dài như: than, nhựa đường, khói muội, dầu hỏa, dẫn suất xăng dầu, thuốc nhuộm tóc, lọc dầu và thạch tín…

Những triệu chứng điển hình của bệnh ung thư da

Đau nhức đầu thường xuyên

Cấu tạo của não cũng như mắt cũng chứa các tế bào Melanocyte chính vì vậy não cũng có nguy cơ xuất hiện tế bào ung thư. Vậy nên, bạn có thể gặp phải các triệu chứng ở vùng não như đau nhức đầu, động kinh, gặp vấn đề về nhận thức… Và đây chính là một trong những dấu hiệu tiềm ẩn của bệnh ung thư da mà bạn không hề hay biết.

Ăn gì cũng đau bụng

Không chỉ là dấu hiệu cảnh báo hệ tiêu hóa đang có vấn đề mà đây có thể là do các hạch bạch huyết, những khối u ác tính đã lây lan tới vùng gan. Lúc này, bạn sẽ cảm thấy đau nhói ở góc trên bên phải vùng bụng thường xuyên và không hề nghĩ rằng mình đang có nguy cơ mắc bệnh ung thư da.

Suy giảm thị lực

Melanocyte là một tế bào sản xuất sắc tố được tìm thấy trong da và các bộ phận khác của cơ thể, bao gồm cả mắt. Ở một số trường hợp, ung thư nguyên phát sẽ xuất hiện ở những nơi này và gây ảnh hưởng đến từng khu vực. Vậy nên, khi khối u ác tính phát triển ở bên trong và xung quanh các tế bào trong mắt của bạn thì khả năng cao bạn sẽ gặp phải hiện tượng suy giảm thị lực đầu tiên.

Hô hấp có vấn đề

Khi khối u ác tính bắt đầu lây lan sang các bộ phận khác trên cơ thể thì phổi sẽ là đối tượng hàng đầu. Nếu bạn sẽ gặp phải một số vấn đề về hô hấp như khó thở, ho dai dẳng… thì cẩn trọng vì đây là một trong những triệu chứng ung thư da không nên chủ quan xem thường vì nó rất dễ nhầm lẫn sang một số bệnh lý khác.

Ngoài ra, còn có những dấu hiệu khác, nó biểu hiện rõ ràng và điển hình trên chính làn da của người bệnh. Đó là: Các nốt ruồi kích thước không cân đối xuất hiện ồ ạt, quá nhiều. Các nốt ruồi này có bờ nham nhở hoặc không đều. Nốt ruồi trở nên sẫm màu hơn hoặc thay đổi màu sắc. Nốt ruồi to lên. Nốt ruồi bị chảy máu hoặc đau. Da đóng vảy, bong tróc

Qua bài viết “cảnh báo những nguyên nhân gây ung thư da ít người ngờ tới”, bạn đọc nều nhận thấy có bất cứ dấu hiệu bất thường nào, hãy kiểm tra và đến bệnh viện để được thăm khám và phát hiện bệnh kịp thời.

Có Thể Bạn Quan Tâm: ung thu vòm họng, nhung dau hieu ung thu vom hong, trieu chung ung thu da day, ung thư vú, ung thư vú và dấu hiệu nhận biết, ,

Chất Gây Ung Thư Ruột Kết Là Gì? Những Nguyên Nhân Triệu Chứng Và Cách Điều Trị

Tổng quan về chất gây ung thư ruột kết

Carcinoid ruột kết (colic carcinoid) bắt nguồn từ các tế bào argyrophil Kultschitzky của tuyến niêm mạc ruột, còn được gọi là argyrophiloma. Do các tế bào khối u có nguồn gốc từ nội bì và được sắp xếp thành tổ nên về mặt bệnh lý, chúng tương tự như ung thư, được gọi là carcinoid và là khối u ác tính cấp thấp .

Carcinoid ruột kết gây ra như thế nào?

(1) Nguyên nhân của bệnh

(2) Cơ chế bệnh sinh

1. Sinh lý bệnh 68% các carcinom ở đại tràng nằm ở đại tràng phải, trong đó manh tràng chiếm 50%. Đại tràng phải, ruột thừa và hỗng tràng có nguồn gốc từ ruột giữa. 65% các loại ung thư giống như argentaffin, và 35% là argyrophil. Sự khác biệt giữa tế bào ưa argentlic và argentophilic là: tế bào trước đây tiết ra 5-HT, trong khi tế bào ưa argentlic tiết ra các hoạt chất chức năng khác. Do đó, carcinoid đại tràng phải có nguồn gốc từ ruột giữa có thể tạo ra hội chứng carcinoid trong giai đoạn cuối của bệnh hoặc khi kèm theo di căn gan . Điều này là do sự bài tiết 5-HT của các tế bào argyrophilic carcinoid vượt quá khả năng phân hủy của cơ thể. Lúc này nồng độ 5-HT trong máu cao hơn bình thường, sau khi 5-HT bị phân hủy trong cơ thể, lượng 5-hydroxyindole acetic acid (5-HIAA) trong nước tiểu trong 24 giờ cũng tăng lên. Các dòng tế bào ung thư ruột kết và trực tràng trái có nguồn gốc từ hậu môn không phải silverophilic và không tiết ra 5-HT. Do đó, ung thư trực tràng giai đoạn cuối không tạo ra hội chứng carcinoid ngay cả khi di căn gan.

(2) Hình dạng vĩ mô: Các carcinoit đại tràng hầu hết nằm ở phần sâu của niêm mạc và có hình cầu hoặc hình hạt đinh lăng, cho thấy các nốt lồi lõm hoặc hình đa giác về phía khoang ruột , không có cuống rộng và một số ít có cuống. Thể tích nhỏ, đường kính chung dưới 1,5cm, thỉnh thoảng lớn hơn vài cm. Khối u cứng, có đường viền rõ ràng, bề mặt phủ niêm mạc bình thường, một số ít có thể bị loét , tạo thành vết lõm ở rốn. Bề mặt vết cắt có màu vàng xám hoặc trắng, ranh giới rõ ràng. Một số trường hợp chỉ biểu hiện như dày khu trú lớp dưới niêm mạc, hoặc phình ra thành ruột dưới dạng polyp đáy rộng. Ung thư ruột kết có thể được nhìn thấy thường xuyên. Niêm mạc được bao phủ bởi khối u nói chung là nguyên vẹn. Loét hoặc chảy máu niêm mạc ít phổ biến hơn so với ung thư biểu mô tuyến. Ung thư trực tràng phổ biến và hiếm gặp hơn. Các khối u thường có đường kính nhỏ hơn 1cm và có thể di động được. Các khối u lớn hơn 1cm thường nhô vào trong lòng ruột tạo thành các khối hình nấm có vết loét. Đôi khi xảy ra hẹp ruột. Các nốt sần và polyp thường gặp.

(3) Hình thái mô: Hình thái tế bào của ung thư đại tràng cũng có mức độ biệt hóa khác nhau. Carcinoid điển hình bao gồm các tế bào biệt hóa tốt, có kích thước nhỏ và đa giác, hình bầu dục hoặc cột thấp, với khối lượng tế bào trung bình, nhân bạch cầu ái toan, tròn hoặc bầu dục, không tăng sắc tố, nằm ở trung tâm tế bào, không rõ ràng. Hiện tượng nguyên phân, giảm phân hiếm gặp. Hình dạng nhân và tế bào tương đối nhất quán, thường sắp xếp thành tổ, dây, tuyến. Trong cơ thể khối u, các tế bào khối u có thể xuất hiện theo một cách sắp xếp, hoặc chúng có thể tồn tại ở ba dạng trên cùng một lúc. Dưới kính hiển vi điện tử, các hạt nội tiết thần kinh hình cầu có thể được tìm thấy trong tế bào chất của các tế bào khối u. Các hạt tiết thần kinh này có một lõi trung tâm hoặc lệch với mật độ và hình dạng điện tử khác nhau. Lõi được bao bọc bởi một màng ranh giới và có một quầng có chiều rộng khác nhau giữa lõi và màng ranh giới. Hình dạng và kích thước của các hạt tiết rất khác nhau, và đường kính của các hạt tiết của tế bào ung thư ruột kết phần lớn là 100-300 nm.

(4) Đặc điểm mô hóa: Phương pháp phát hiện mô hóa của carcinoid đại tràng chủ yếu là nhuộm argyrophil, và có thể nhìn thấy các hạt màu đen trong tế bào chất của nhuộm argyrophil. Carcinoid ở các bộ phận khác nhau có phản ứng khác nhau đối với sự nhuộm bạc. Carcinoid xuất hiện ở phần sau có các hạt tế bào chất lớn, kích thước tròn và đồng đều, và một số có khả năng nhuộm bạc dương tính. Khoảng 55% trường hợp nhuộm argyrophilic đối với carcinoid trực tràng là âm tính, nhưng một số lại dương tính với nhuộm argyrophilic (28%).

(5) Đặc điểm hóa mô miễn dịch: Chất chỉ điểm hóa mô miễn dịch nhạy nhất là chromogranin, và biểu hiện dương tính của chất chỉ điểm này là cơ sở đáng tin cậy nhất để chẩn đoán carcinoid ngoài hình thái mô học. Biểu hiện tích cực của các dấu hiệu khác, chẳng hạn như enolase đặc hiệu tế bào thần kinh (NSE) và cytokeratin, có ý nghĩa chứng thực đối với việc chẩn đoán carcinoid. Hóa mô miễn dịch cho thấy 90% carcinoid midgut dương tính với serotonin, và 90% carcinoid endgut dương tính với polypeptide tụy. Carcinoid trực tràng có thể dương tính với cytokeratin, NSE, chromogranin A và synaptophysin.

Carcinoid ruột kết được đặc trưng bởi nhiều khối u hoặc đa nguồn, với tỷ lệ mắc bệnh từ 2% đến 4,5%, nhưng tỷ lệ ung thư ruột non thấp từ 25% đến 35%. Kuiper báo cáo rằng tỷ lệ các khối u carcinoid kết hợp với các khối u ác tính khác là 29% đến 47%, cao hơn nhiều so với các khối u khác (5,1% đến 7%), và hơn một nửa số khối u kết hợp là ở đường tiêu hóa. Vì các khối u đồng thời thường có tiên lượng xấu hơn so với các chất gây ung thư, khi các chất gây ung thư tồn tại, hãy tìm các khối u ác tính ở các bộ phận khác của cơ thể.

2. Các loại bệnh lý Williams phân chia các chất gây ung thư đường tiêu hóa theo sự hình thành phôi và nguồn cung cấp máu: ① Các chất gây ung thư ruột: bao gồm dạ dày, tá tràng 1, 2, và tuyến tụy; các chất gây ung thư ruột ②mid-ruột: bao gồm mười Diodenum 3 và 4 phân đoạn, hỗng tràng, ruột thừa và đại tràng lên; ③Hindgut carcinoid: bao gồm đại tràng trái và trực tràng.

Theo sự khác biệt trong phản ứng của tế bào ung thư đối với quá trình nhuộm bạc, carcinoids được chia thành hai loại: silverophilic và không silverophilic. Tế bào ung thư Foregut sản xuất nhiều loại hormone. Do số lượng ít nên chúng có ít triệu chứng lâm sàng. Tế bào ung thư midgut chủ yếu tiết ra serotonin,… và sự tiết ra nó vượt quá khả năng thoái hóa của gan, đặc biệt khi có di căn gan thường xuất hiện các triệu chứng của hội chứng carcinoid. Tế bào ung thư carcinoid ở phần sau có thể tiết ra nhiều loại chất peptide, chẳng hạn như somatostatin, enkephalin, chất P,… và hiếm khi biểu hiện hội chứng carcinoid.

Carcinoid được phân loại thành carcinoid điển hình và carcinoid không điển hình theo loại bệnh lý của chúng. Carcinoid không điển hình là loại carcinoid biệt hóa kém, thường gợi ý các hành vi ác tính hơn. Tiên lượng của carcinoid điển hình tốt hơn đáng kể so với carcinoid không điển hình.

Cấu trúc mô học của carcinoid ruột kết có thể được chia thành 4 loại:

(1) Loại adenoid: Tế bào ung thư có dạng nối tiếp sợi dây và bao quanh thành ống tuyến hoặc phế nang, cụm hình hoa cúc, hình dải băng, v.v … Tế bào chủ yếu có dạng cột thấp.

(2) Dạng dây: Tế bào ung thư sắp xếp thành dây đặc, hoặc dây tế bào hàng đôi sắp xếp song song theo kiểu dải băng. Có một lượng nhỏ không gian mô liên kết giữa các dây và phản ứng kẽ rõ ràng giống như ung thư biểu mô.

(3) Dạng khối rắn: Các tế bào ung thư sắp xếp thành khối giống như cái tổ chắc chắn bao gồm các tế bào khối u đa giác có cùng kích thước và các tổ được ngăn cách bởi một lượng nhỏ mô liên kết có chứa mao mạch.

(4) Loại hỗn hợp: 3 loại trên có thể trộn tùy ý.

3. Con đường di căn Sự khác biệt lớn nhất giữa carcinoid đại tràng và các carcinoid khác là tỷ lệ di căn cao. Carcinoids được tìm thấy trong ruột kết có kích thước lớn hơn các bộ phận khác, với đường kính trung bình là 4,9 cm. Một phần nguyên nhân là do khoang ruột già của đại tràng phải không dễ phát hiện sớm. Các hạch bạch huyết khu vực là vị trí di căn nhiều nhất, sau đó là gan, phổi và buồng trứng. Tại thời điểm phẫu thuật, khoảng 60% đã có di căn hạch hoặc gan tại chỗ.

Các triệu chứng của carcinoid ruột kết là gì?

Các triệu chứng thường gặp: tiêu chảy, phân lỏng hoặc tiêu chảy ra nước, đau bụng, phù nề, tim đập nhanh, đau ngực, hen suyễn, đỏ da kịch phát

  1. Triệu chứng chung

Hầu hết carcinoids không có triệu chứng rõ ràng khi chúng còn nhỏ, và chúng thường được phát hiện trên lâm sàng trong một số trường hợp không thường xuyên. Nếu nốt u phát triển đến một kích thước nhất định hoặc phát triển ở một vị trí đặc biệt, nó thường có thể gây ra một số rối loạn chức năng đường ruột , đau bụng hoặc tắc nghẽn ở nhiều mức độ khác nhau. Carcinoid của ruột thừa có các triệu chứng của viêm ruột thừa, và nó thường bị chẩn đoán nhầm là viêm ruột thừa khi phẫu thuật. Carcinoid trực tràng có thể có máu tụ , phân nhầy và máu hoặc thay đổi thói quen đi tiêu sớm hơn so với ung thư ruột kết . Tuy nhiên, các triệu chứng này không khác nhiều so với các biểu hiện do ung thư biểu mô tuyến đại trực tràng tại cùng vị trí. Do đó, trên lâm sàng khó chẩn đoán chính xác.

Ngoài các triệu chứng chung tương tự như ung thư biểu mô tuyến đại trực tràng, một số ít trường hợp ung thư biểu mô trực tràng , bất kể kích thước khối u của chúng, có thể có một số hội chứng cụ thể được gọi là hội chứng carcinoid . Quan sát và nghiên cứu sự hiện diện hay không có hội chứng carcinoid giúp ích cho việc chẩn đoán và điều trị lâm sàng.

  2. Hội chứng carcinoid

(1) Đỏ da kịch phát: thường xảy ra ở trên ngực, chẳng hạn như mặt, cổ, ngực trên, v.v. Biểu hiện là da đỏ bừng rải rác và rõ, thường kéo dài từ 2 đến 5 phút và có thể tự giảm, nếu kéo dài (như vài giờ) sẽ chuyển sang màu tím, phù nề cục bộ , tim đập nhanh và tụt huyết áp . Da đỏ bừng chủ yếu là do kích động tình cảm, làm việc hoặc ăn uống quá sức và là một trong những triệu chứng phổ biến nhất của hội chứng carcinoid.

(2) Tiêu chảy: Tiêu chảy chủ yếu là phân lỏng hoặc tiêu chảy nhiều nước, ngày 5-6 lần, đến 20-30 lần, trường hợp nặng có thể mất cân bằng nước và điện giải. Tiêu chảy thường kèm theo đau bụng tạm thời, thỉnh thoảng xuất hiện cùng lúc với các triệu chứng khác. Một số người bị tiêu chảy sau khi ăn hoặc vào sáng sớm.

3. Chờ đợi. Do các bệnh lý nêu trên, bệnh nhân carcinoid có các triệu chứng và dấu hiệu tương ứng, chẳng hạn như hở van ba lá hoặc tiếng thổi ở phổi , đau ngực, v.v.

Hội chứng carcinoid đường ruột là kết quả của rối loạn chuyển hóa tryptophan. Chỉ 1% tryptophan ở người bình thường được chuyển hóa thành serotonin, khi bị hội chứng carcinoid, 60% tryptophan có thể chuyển hóa thành serotonin trong cơ thể người bệnh.

Hội chứng carcinoid carcinoid ruột thường kèm theo di căn tại chỗ rộng rãi và di căn gan . Carcinoid ruột không di căn gan nói chung không gây ra hội chứng carcinoid. Do các hoạt chất do carcinoid trong ruột tiết ra phải vào gan qua đường máu và bị phân giải bởi men monoamine oxidase dồi dào trong gan nên hội chứng carcinoid không xảy ra. Bình thường 65% serotonin từ ruột chuyển hóa ở gan, 33% bị monoamine oxidase ở mô phổi bất hoạt, chỉ một lượng rất nhỏ serotonin đi vào vòng tuần hoàn chung nên không gây rối loạn sinh lý. Khi carcinoid di căn đến gan, serotonin do carcinoid tiết ra có thể trực tiếp đi vào tĩnh mạch gan và chảy qua tim phải vào phổi, trong điều kiện quá tải, phổi không thể bất hoạt hoàn toàn serotonin, khiến serotonin đi vào vòng tuần hoàn lớn. Hội chứng carcinoid xảy ra. Vì nồng độ serotonin trong khoang tim phải cao hơn trong khoang tim trái, nên tăng sản mô sợi ở nội tâm mạc bên phải phổ biến hơn ở tim trái.

Ung thư ruột kết không có triệu chứng trong giai đoạn đầu, khi khối u tiến triển, hầu hết chúng đều có các triệu chứng ở các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, biểu hiện lâm sàng của ung thư biểu mô ruột kết thiếu tính đặc hiệu và khó phân biệt với ung thư biểu mô tuyến ruột kết, chẩn đoán trước mổ rất khó. Trong chẩn đoán lâm sàng bệnh đại tràng, cần xem xét khả năng có carcinoid ruột kết, và cần bổ sung xét nghiệm chất cản quang bari, siêu âm B, nội soi đại tràng,… khi cần thiết để giúp chẩn đoán.

Xét nghiệm giải phẫu bệnh hiện đang là phương pháp chẩn đoán u carcinoid quan trọng, theo đặc điểm mô học của khối u, nhìn chung việc chẩn đoán xác định không khó.

Các hạng mục kiểm tra carcinoid ruột kết là gì?

Các hạng mục kiểm tra: Kiểm tra chất cản quang, axit axetic 5-hydroxyindole trong nước tiểu, soi ruột kết sợi, soi đại tràng sigma, kiểm tra CT, kiểm tra siêu âm B, kiểm tra kháng nguyên chống ung thư, đối quang kép air-bari, xạ hình thụ thể somatostatin

1. Xác định axit 5-hydroxyindole acetic trong nước tiểu của người bình thường Axit 5-hydroxyindole acetic là 2-9mg, khi hàm lượng của nó vượt quá 50mg sẽ giúp chẩn đoán hội chứng carcinoid . Bài tiết cá thể có thể đạt 2000mg.

2. Kiểm tra mô bệnh học Các đặc điểm hình thái của u carcinoid dưới kính hiển vi ánh sáng là: ① Hình thái, kích thước và sự nhuộm màu của nhân carcinoid tương đối thống nhất, ít phân chia, nhỏ bất thường, nhân không lồi. ② Tế bào chất của các tế bào giống ung thư trong suốt hoặc dạng hạt mịn tăng bạch cầu ái toan, với phản ứng nhuộm silverophilic và silverophilic. ③Các tế bào ung thư có hình đa giác hoặc hình tròn, và chúng được sắp xếp thành các dải băng sa tanh đặc biệt, hình hoa thị, các cụm hoa cúc, các tổ rắn giống như nhung hươu hoặc cấu trúc adenoid. Các tế bào ung thư cách đều nhau và sắp xếp gọn gàng. ④ Carcinoid kẽ thường có tăng sinh mô sợi, và tăng sinh mô sợi kẽ rõ ràng hơn ở bệnh nhân hội chứng carcinoid.

1. Chụp cản quang kép air-bari có giá trị cao trong chẩn đoán u nguyên phát, khám không chỉ làm rõ vị trí của khối u mà còn tìm ra nhiều tổn thương. Soi đối quang kép air-bari có thể phát hiện sớm khối u carcinoid có đường kính dưới 2cm. . Tổn thương ruột kết trên X-quang có thể cho thấy 4 loại: loại: nhiều nốt hợp nhất; polyp : những thay đổi giống như khuyết tật lấp đầy; infiltrating: thâm nhiễm và hẹp đoạn ruột; Loại tắc nghẽn đường tiêu hoá : bari Đường chuyền bị chặn.

2. Nội soi đại tràng nên được thực hiện thường quy cho những bệnh nhân nghi ngờ có carcinoid ruột kết. Nội soi đại tràng hiện là phương pháp hiệu quả nhất, an toàn nhất và đáng tin cậy nhất để chẩn đoán các tổn thương ở đại tràng, hầu hết các tổn thương ban đầu có thể được tìm thấy bằng phương pháp nội soi. Dưới nội soi đại tràng, carcinoids đại tràng là những polyp không cuống hình bán cầu, phình ra thành ruột, thành cứng, hầu hết niêm mạc bề mặt nhẵn, màu trắng xám, thường gặp dị dạng ở trung tâm. Có thể có xung huyết niêm mạc , phù nề , xói mòn bề mặt hoặc loét ở phần kế cận , rất dễ chẩn đoán nhầm là ung thư đại tràng . Nội soi đại tràng không chỉ quan sát được tổn thương dưới cái nhìn trực tiếp mà còn có thể lấy sinh thiết để xét nghiệm bệnh lý.

3. Siêu âm B và CT scan có giá trị lớn trong việc tìm hiểu mức độ tổn thương, độ sâu xâm lấn, sự hiện diện hay không có di căn và ước lượng phạm vi phẫu thuật, nhưng chúng giúp ích rất ít cho việc chẩn đoán định tính carcinoid.

4. Xạ hình thụ thể Somatostatin Đối với các khối u carcinoid có đường kính dưới 1 cm, chụp X-quang, siêu âm B, CT và các xét nghiệm hình ảnh khác thường khó phát hiện và xác định vị trí. Tuy nhiên, với phương pháp xạ hình 111In-DTPA-D-phe’I-octreotide, 80% đến 90% các tổn thương carcinoid có thể được chẩn đoán. Kwekkeboom đã sử dụng phương pháp quét octreotide kết hợp với X quang phổi và siêu âm vùng bụng trên để chẩn đoán carcinoid, và nhận thấy rằng độ nhạy của phương pháp kết hợp là 87%.

Làm thế nào để chẩn đoán phân biệt với carcinoid ruột kết?

Trong giai đoạn đầu của ung thư ruột kết, bệnh nhân có thể không có triệu chứng hoặc đau bụng từng cơn và khó chịu. Họ thường không được chú ý. Thói quen đi phân không thay đổi. Đôi khi có thể xen kẽ tiêu chảy nhẹ hoặc tiêu chảy và táo bón . Khi bệnh tiến triển, bụng của bệnh nhân Sưng và khó chịu có thể kèm theo đau âm ỉ dai dẳng , thay đổi đáng kể thói quen đi tiêu, tăng tần suất, phân lỏng hoặc phân có máu đặc và phân có máu. Bệnh nhân muộn thường có biểu hiện sụt cân giống như thiếu máu , đau bụng âm ỉ dai dẳng hoặc kịch phát và phân thường có chất nhầy và máu Hoặc phân có máu. Khi bị tắc ruột , biểu hiện của nó là chướng bụng nhiều , đau quặn bụng, buồn nôn và nôn .

Carcinoid đại tràng có thể gây ra những bệnh gì?

Nên phòng ngừa ung thư ruột kết bằng cách nào?

Các phương pháp điều trị ung thư đại tràng là gì?

(1) Điều trị

2. Hóa trị chủ yếu là không nhạy cảm, và nó chủ yếu được sử dụng cho những bệnh nhân có di căn rộng, cắt bỏ không thể cắt bỏ hoặc giảm nhẹ. Ở những bệnh nhân không có CS, hóa trị kết hợp đôi khi có hiệu quả. Các loại thuốc thường dùng là fluorouracil, streptozocin (STZ), carmustine (BCNU), lomustine (CCNU), doxorubicin (ADM), methotrexate (MTX), cyclophosphamide, bustin An (Malilan) và Dacarbazine (Dacarbazine, DTIC). Trong số đó, fluorouracil và streptozocin hoặc fluorouracil và lomustine (CCNU) hiệu quả hơn. Thật không may, các khối u nhạy cảm hơn với hóa trị liệu dễ bị tấn công CS nặng hoặc thậm chí gây tử vong trong quá trình hóa trị. Người ta cũng tin rằng hóa trị liệu trước mổ từ 3 đến 9 tháng, sau đó là hóa trị liệu thuyên tắc nội khí quản qua da, và thắt động mạch gan và các tuần hoàn bàng hệ khác vài tuần sau đó, có tác dụng tốt đối với bệnh nhân CS. Nếu thuốc đối kháng hoặc thuốc chẹn như serotonin, α-adrenaline và bradykinin có hiệu quả đối với hóa trị liệu, có thể xây dựng phác đồ hóa trị riêng lẻ dài hạn. Liều lượng nên thấp hơn liều lượng hóa trị liệu thông thường để giảm các phản ứng phụ. Xét nghiệm epinephrine dương tính trước khi điều trị, và xét nghiệm epinephrine chuyển sang âm tính sau khi điều trị và cho thấy hiệu quả. Kế hoạch điều trị ban đầu nên được xác định tại bệnh viện, sau đó chuyển sang điều trị và theo dõi ngoại trú.

3. Xạ trị có tác dụng nhất định đối với di căn gan, đồng thời có thể giảm đau do di căn xương, liều thường dùng là 4000-4500Gy.

4. Việc điều trị hội chứng carcinoid và các biến chứng khác phù hợp với từng người tùy theo triệu chứng và mức độ bệnh. Tất cả nên được thực hiện một chế độ ăn giàu protein, bổ sung niacin và vitamin. Ngoài ra methoxamine và yếu tố căng mạch thận trọng trong trường hợp sốc ngoại huyết áp hạ huyết áp nghiêm trọng và vô hiệu hóa các thuốc adrenergic, bao gồm tất cả các thuốc co mạch. Nên hạn chế nghiêm ngặt các chất ức chế monoamine oxidase và các thuốc giống thần kinh giao cảm, đồng thời phải ngăn chặn việc giải phóng catecholamine nội sinh, cấm hút thuốc, kích thích thể chất và căng thẳng cảm xúc. Ngay cả khi bệnh nhân được phẫu thuật với rủi ro tối thiểu, việc gây mê cũng cần thận trọng, nếu không sẽ xảy ra các biến chứng nghiêm trọng. Thuốc kháng serotonin và kháng bradykinin trước phẫu thuật, sử dụng natri thiopental, pavron, và oxit nitơ (khí cười) có thể làm giảm đáng kể nguy cơ. Thuốc phiện như hợp chất diphenoxylate và loperidine có thể kiểm soát tiêu chảy một cách hiệu quả và việc sử dụng đủ thuốc kháng cholinergic đôi khi sẽ hữu ích. Somatostatin và interferon có thể làm dịu cơn bốc hỏa , giảm tiêu chảy và có tác dụng nhất định đối với carcinoid di căn. Các chế phẩm của Pancreatin cũng có thể cải thiện tình trạng tăng tiết mỡ và kém hấp thu. Cholestyramine (cholestyramine) vẫn có thể được sử dụng nếu hệ thống kém hấp thu muối mật. Trong quá trình phẫu thuật, 90Yi trộn với các vi cầu nhựa được tiêm vào động mạch gan, và tia β cũng có thể được sử dụng để kiểm soát hiệu quả CS.

(2) Tiên lượng

Chế độ ăn kiêng carcinoid ruột kết

Đồ ăn nhẹ. Trong trường hợp bình thường, sau khi mổ người bệnh phải chú ý chế độ ăn nhẹ, dễ tiêu, dinh dưỡng hợp lý. Khi tình trạng bệnh được cải thiện, hãy dần trở lại chế độ ăn uống bình thường Tỏi, hành tây, tỏi xanh, tỏi tây, bia, thịt cừu,… dễ bị đầy hơi và có mùi hôi, mang lại cảm giác khó chịu cho bản thân, bạn nên cố gắng ăn ít hoặc không. Uống một cốc nước sôi để nguội vào mỗi buổi sáng để kích thích nhu động ruột hoặc nhỏ một ít nước muối sinh lý vào hậu môn nhân tạo để đi cầu. Tập thể dục phù hợp cũng có thể giúp điều hòa nhu động ruột.