Bạn đang xem bài viết Kết Quả Sau 10 Năm Điều Trị U Màng Não Thất Bằng Dao Gamma Quay Tại Trung Tâm Y Học Hạt Nhân Và Ung Bướu, Bệnh Viện Bạch Mai được cập nhật mới nhất trên website Sept.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Kết quả sau 10 năm điều trị u màng não thất bằng dao gamma quay tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai
Hình 1. Hình ảnh kế hoạch xạ phẫu u màng não thất III lần 1 (năm 2007)
Sau 2 tháng điều trị, bệnh nhân giảm hẳn các triệu chứng: đỡ chóng mặt, không nôn, không buồn nôn, đau đầu ít. 05 tháng sau điều trị, bệnh nhân đã có thể sinh hoạt bình thường, không còn triệu chứng cơ năng.
Tháng 3/2018, sau hơn 10 năm điều trị, bệnh nhân lại xuất hiện đau đầu nhiều, đau liên tục, nôn, buồn nôn, nhìn mờ, đi lại mất thăng bằng. Bệnh nhân đi khám tại Bệnh viện Bạch Mai, chụp cộng hưởng từ sọ não cho thấy hình ảnh u não thất III tái phát. Bệnh nhân được đề nghị nhập viện, vào Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu – Bệnh viện Bạch Mai xét điều trị.Khám lúc vào viện: Bệnh nhân tỉnh, thể trạng trung bình.Có hội chứng tăng áp lực nội sọ: đau đầu, buồn nôn, nhìn mờ.Không yếu liệt vận động.Nhịp tim đều, T¬1¬T2 rõ.Phổi: rì rào phế nang rõ, không có rales.Huyết áp: 130/60 mmHg, Mạch: 83 lần/phút.Cận lâm sàng:Công thức máu: Hồng cầu: 4.56 T/L; Huyết sắc tố: 136g/L; Bạch cầu: 6.3G/L; Tiểu cầu: 237G/LĐông máu: bình thường.Sinh hóa máu: bình thường.Ure: 6.9 mmol/L; Glucose: 3.9 mmol/L; Creatinin: 72 mmol/L; GOT: 13 U/L; GPT: 16 U/LVi sinh: HCV Ab: âm tính ; HBsAg: âm tính ; HIV: âm tínhX – Quang tim phổi thẳng: bình thường.Siêu âm ổ bụng: không thấy bất thường.Điện tâm đồ: nhịp xoang đều, 82 lần/phútChụp cộng hưởng từ sọ não ngày 23/03/2018 (trước dẫn lưu não thất): Tổn thương ngoài trục lan theo lỗ bên não thất III – mặt sau cuống đại não – thân não, kích thước 15×27 mm, tăng tín hiệu trên T2W, FLAIR, ngấm thuốc mạnh sau tiêm. Khối chèn ép gây giãn toàn bộ não thất phía trên.
Hình 3. Hình ảnh chụp cộng hưởng từ: khối u gây giãn não thất trước điều trị xạ phẫu lần 2 (vòng tròn đỏ: hình ảnh u theo 3 mặt phẳng của não)
Chẩn đoán: Giãn não thất / U màng não thất III đã xạ phẫu tái phát.Điều trị: bệnh nhân được hội chẩn hội đồng giáo sư, chỉ định phẫu thuật dẫn lưu não thất ổ bụng sau đó sẽ tiếp tục được điều trị bằng dao Gamma quay.
Ngày 30/3/2018, tiến hành dẫn lưu não thất – ổ bụng tại khoa Ngoại. Sau phẫu thuật bệnh nhân ổn định, đỡ đau đầu, giảm nôn, nhìn rõ hơn.
Hình 4. Hình ảnh chụp cắt lớp vi tính sọ não sau phẫu thuật dẫn lưu não thất – ổ bụng.
Sau 1,5 tháng điều trị: Bệnh nhân tỉnh, thỉnh thoảng có cơn đau đầu nhẹ, không mất thăng bằng, không buồn nôn, không nhìn mờ.Hình ảnh chụp cộng hưởng từ sọ não: Nhu mô não không thấy khối ngấm thuốc bất thường, hình ảnh đường dẫn lưu não thất cũ vùng thái dương phải. Đường giữa cân đối. Hệ thống não thất cân đối, không giãn, dịch não tủy trong và đồng nhất, không thấy khối choán chỗ.
Hình 5: Hình ảnh cộng hưởng từ sọ não sau điều trị xạ phẫu dao Gamma quay 1,5 tháng
Như vậy, so với trước xạ phẫu, bệnh nhân đã cải thiện rất nhiều về triệu chứng cơ năng và hình ảnh.
Điều Trị Thành Công Bệnh U Lympho Ác Tính Không Hodgkin Tại Trung Tâm Y Học Hạt Nhân Và Ung Bướu – Bệnh Viện Bạch Mai
Công thức máu: bình thường.
Hình 1: Hình ảnh khối hạch vùng cổ trái kích thước 10×12 cm, tăng hấp thu FDG mạnh (vòng tròn vàng).
v Tóm lại:
Bệnh nhân nam, 53 tuổi, vào viện vì nổi hạch cổ trái.
Chẩn đoán xác định: U lympho ác tính không Hodgkin giai đoạn IIA, nguy cơ thấp, có yếu tố Bulky.
Mô bệnh học: U lympho ác tính không Hodgkin dòng tế bào B lớn lan tỏa, CD 20 (+).
Xử trí: Hóa chất toàn thân: phác đồ R-CHOP
oRituximab 350 mg/m2, truyền tĩnh mạch, ngày 1
oCyclophosphamide 750 mg/m2, truyền tĩnh mạch ngày 1.
oDoxorubicin 50 mg/m2, truyền tĩnh mạch ngày 1
oVincristin 1,4 mg/m2, truyền tĩnh mạch ngày 1
oPrednisolon 100mg/ngày uống ngày 1-ngày 5.
Bệnh nhân được điều trị phác đồ R-CHOP x 6 chu kỳ.
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ SAU 4 THÁNG (6 chu kỳ hóa chất)
v Lâm sàng
Bệnh nhân tỉnh
Thể trạng tốt
Sinh hoạt bình thường
Không còn sờ thấy khối hạch cổ.
v Công thức máu: trong giới hạn bình thường, không còn thiếu máu
v Hóa sinh máu: chức năng gan, thận trong giới hạn bình thường
v Chất chỉ điểm u: nằm trong giới hạn bình thường.
v Chụp PET/CT sau điều trị: khối hạch cổ trái tan biến hoàn toàn, không thấy tăng hấp thu FDG tại cơ quan bộ phận khác của cơ thể.
Hình 2: hình ảnh chụp PET/CT sau điều trị cho thấy khối hạch cổ trái tan biến hoàn toàn, không thấy tăng hấp thu FDG tại cơ quan bộ phận khác của cơ thể.
v Bệnh nhân được đánh giá đáp ứng hoàn toàn, tiếp tục theo dõi và khám định kỳ. Hiện tại sau điều trị 6 năm bệnh nhân ổn định. Hình ảnh PET/CT không thấy tăng hấp thu FDG bất thường tại cơ quan bộ phận nào khác của cơ thể.
Hình 3: Hình ảnh PET/CT sau điều trị 6 năm không thấy tăng hấp thu FDG bất thường tại cơ quan bộ phận nào khác của cơ thể.
v So sánh trước và sau điều trị:
v Lâm sàng:
Trước điều trị: ăn kém, hạch cổ trái kích thước lớn 10 x 12 cm, ảnh hưởng sinh hoạt.
Sau điều trị: Tăng cân, sinh hoạt làm việc bình thường, khối hạch cổ tan biến hoàn toàn.
v Hình ảnh PET/CT trước và sau điều trị
Hình 4: Trước điều trị: Hình ảnh khối hạch vùng cổ trái kích thước 10×12 cm, tăng hấp thu FDG mạnh (vòng tròn vàng).
: Trước điều trị: Hình ảnh khối hạch vùng cổ trái kích thước 10×12 cm, tăng hấp thu FDG mạnh (vòng tròn vàng).
Hình 5: Sau điều trị 4 tháng (6 chu kỳ hóa chất) : hình ảnh chụp PET/CT sau điều trị cho thấy khối hạch cổ trái tan biến hoàn toàn, không thấy tăng hấp thu FDG tại cơ quan bộ phận khác của cơ thể.
Hình 6: Sau điều trị 6 năm: hình ảnh chụp PET/CT sau điều trị cho thấy khối hạch cổ trái tan biến hoàn toàn, không thấy tăng hấp thu FDG tại cơ quan bộ phận khác của cơ thể.
Nguồn: ungthubachmai.com.vn
Nguồn: ungthubachmai.com.vn
Điều Trị Hiệu Quả Sarcoma Mô Mềm Giai Đoạn Muộn Tại Trung Tâm Y Học Hạt Nhân Và Ung Bướu – Bệnh Viện Bạch Mai
Hình ảnh chụp PET/CT lần 1 (vùng ngực): Nốt di căn hai phổi kích thước từ 0,3-2,0cm, SUV=4,5. Hạch trung thất, hạch rốn phổi hai bên kích thước 2,0-2,8cm, SUV=6,6.
Hình ảnh chụp PET/CT lần 1 (vùng ngực, đùi, tiểu khung): Hình ảnh di căn hạch trung thất và hạch rốn phổi hai bên kích thước lớn nhất 2,5×3,6cm, SUV=6,8. Di căn hạch ổ bụng 2,6cm SUV=5,4. Di căn phần mềm đùi phải 1,7cm SUV=3,8.
Hình ảnh chụp PET/CT lần 1 (vùng tiểu khung):
Hạch ổ bụng di căn kích thước thước 1,0-4,5cm, SUV=6,7
Kết quả chụp PET/CT lần 1 (mặt cắt đứng dọc): Nốt di căn tủy xương (mũi tên màu vàng).
Các hội chứng và dấu hiệu
- Hội chứng thiếu máu: da xanh, niêm mạc nhợt, hông cầu và hemoglobin giảm.
- Hội chứng vàng da tắc mật: có vàng da
- Dấu hiệu giảm Albumin máu: phù to
- Hội chứng hủy tế bào gan: không
- Dấu hiệu di căn xa: xâm lấn xương, di căn phổi, hạch trung thất, hạch ổ bụng, di căn gan, di căn phần mềm đa ổ.
Chẩn đoán xác định
Sarcoma phần mềm xâm lấn cổ xương đùi phải T3N1M1, di căn hạch ổ bụng, hạch trung thất, di căn gan, di căn phổi, di căn phần mềm nhiều ổ.
Hướng điều trị
Điều trị nội khoa nhằm cải thiện tình trạng thiếu máu, vàng da tắc mật, giảm Albumin máu, chống hủy xương, giảm đau, bổ sung dinh dưỡng.
Điều trị cụ thể:
- Lợi tiểu: Furosemide 20mg x 2 ống tiêm tĩnh mạch/ ngày chia 2 lần.
- Kaliclorua 2g x 2 gói uống/ngày chia 2 lần.
- Xạ trị giảm đau tại tổn thương vùng cổ xương đùi phải 4Gy/ ngày/ 5 ngày.
- Giảm đau:
+ Paracetamol 1g x 1 chai truyền tĩnh mạch sáng, chiều
+ Durogesic 50µcg dán da vùng lưng mỗi 3 ngày.
+ Thuốc uống: Arcoxia 120 mg mỗi ngày 1 viên sau ăn
+ Morphin 10 mg x 1-2 ống tiêm bắp mỗi ngày.
- Thiếu máu, chảy máu:
+ Truyền 2 đơn vị khối hồng cầu cùng nhóm trong 2 ngày liên tiếp.
+ Hemax 2000 UI tiêm dưới da mỗi 3 ngày.
- Xâm lấn xương: Zometa 0,4g pha trong 500ml dung dịch NaCl 0,9% truyền tĩnh mạch mỗi 28 ngày.
- Truyền Albumin 100 ml x 1 chai/ ngày/ 3 ngày liên tiếp
- Hóa chất: Chemodox 20 mg x 3 lọ pha trong NaCl 0,9% chu kỳ mỗi 21 ngày.
- Thuốc tăng sinh bạch cầu: Leukokin 300µcg x 1 lọ/ngày/ 2 ngày liên tiếp (tiêm bắp).
- Bổ sung dinh dưỡng, tăng cường miễn dịch:
Truyền Lipovenous x 500ml truyền tĩnh mạch 30 giọt/phút (cách ngày).
Truyền Amino N hepa Steril 500ml truyền tĩnh mạch 30 giọt/phút ( xen kẽ Lipovenous).
Pomulin 0,6g x 2 lọ pha trong NaCl 0,9% x 500ml truyền tĩnh mạch 30 giọt/phút.
Glucose 10% x 500ml truyền tĩnh mạch 30 giọt/phút
Sau 3 chu kỳ hóa chất:
Lâm sàng: bệnh nhân hết phù, đỡ mệt mỏi, cơ thể nhanh nhẹn, tăng cân, niêm mạc hồng. Tuy nhiên bệnh nhân còn đau vùng cổ xương đùi phải.
Cận lâm sàng: Kết quả xét nghiệm công thức máu cải thiện rõ (Hồng cầu: 3,8 T/L, Hemoglobin: 107 G/L, tiểu cầu:156 G/L, bạch cầu: 9 G/L, huyết sắc tố 40 %, xét nghiệm đông máu cơ bản, xét nghiệm sinh hóa máu: chức năng gan thận, điện giải đồ, Albumin trong giới hạn bình thường.
Nguyện vọng của gia đình bệnh nhân: chụp PET/CT lần 2 đánh giá sau 3 chu kỳ hóa chất
KẾT QUẢ NHƯ SAU:
Hình ảnh so sánh tổng thể kết quả chụp PET/CT lần 1 và lần 2: Hình ảnh rất nhiều tổn thương đã biến mất sau khi điều trị. Kết quả chụp PET/CT lần 1 (hình bên trái: rất nhiềutổn thương), sau khi chụp lần 2: chỉ còn hai tổn thương tại cổ xương đùi và nốt nhỏ ở gan (với kích thước và mức độ hấp thu SUV thấp hơn nhiều).
So sánh kết quả chụp PET/CT lần 1 và 2 (hình ảnh vùng tiểu khung): Hình ảnh khối u ác tính xâm lấn cổ xương đùi bên phải di căn nhiều hạch chậu đáp ứng sau điều trị hóa chất – hình bên trái; sau chụp PET/CT lần 2- hình bên phải: tổn thương u nguyên phát tại cổ xương đùi giảm về kích thước và độ hấp thu phóng xạ, không thấy các tổn thương di căn hạch chậu và phần mềm xung quanh.
Hình ảnh so sánh kết quả chụp PET/CT lần 1 – bên trái và 2- bên phải (hình ảnh vùng tiểu khung 2): Các tổn thương di căn hạch ổ bụng đáp ứng tốt sau điều trị (hầu như không còn hạch di căn sau khi chụp PET/CT lần 2 – hình bên phải).
Hình ảnh so sánh kết quả chụp PET/CT lần 1 – hình bên trái và 2 – hình bên phải
(hình ảnh vùng tiểu khung, đùi): Không thấy các tổn thương di căn hạch ổ bụng, di căn phần mềm sau điều trị 3 đợt hóa chất
Hình ảnh so sánh kết quả chụp PET/CT lần 1 – bên trên và 2 – bên dưới
(hình ảnh vùng ngực): Các nốt di căn phổi hai bên và hạch trung thất đáp ứng tốt sau hóa trị
Hình ảnh so sánh kết quả chụp PET/CT lần 1 – bên trên và 2 – bên dưới
(hình ảnh vùng bụng): Các nốt di căn hạch ổ bụng đáp ứng tốt sau hóa trị (chụp PET/CT lần 2 sau điều trị 3 đợt hóa chất chỉ còn một hạch nhỏ tăng hấp thu FDG thấp).
Hình ảnh so sánh kết quả chụp PET/CT lần 1 – bên trên và 2 – bên dưới
(hình ảnh vùng ngực, trung thất): Các nốt di căn phổi và hạch trung thất biến mất sau hóa trị
Hình ảnh so sánh kết quả chụp PET/CT lần 1 – bên trên và 2 – bên dưới
(hình ảnh vùng ngực, trung thất 2): Các nốt di căn phổi đáp ứng tốt với hóa trị (hình bên dưới).
Hình ảnh so sánh kết quả chụp PET/CT lần 1 – bên trên và 2 – bên dưới
(hình ảnh vùng gan): Khối u di căn lớn tại gan phải đáp ứng gần hoàn toàn sau 3 đợt hóa trị (hình dưới).
Hình ảnh so sánh kết quả chụp PET/CT lần 1 – hình bên trái và 2 – hình bên phải
(hình ảnh vùng gan, hạch rốn gan): Khối u di căn gan lớn đáp ứng gần hoàn toàn sau 3 đợt hóa trị (chỉ còn lại nốt nhỏ vùng hạ phân thùy VI gan phải tăng hấp thu FDG nhẹ, không còn hạch rốn gan – hình bên phải).
Hình ảnh so sánh kết quả chụp PET/CT lần 1 – hình trên và 2 – hình dưới
(hình ảnh mặt cắt đứng dọc, ngang): tổn thương thu nhỏ rất nhiều so với trước khi điều trị (bao gồm cả nôt di căn vào tủy xương đùi phải)
Như vậy sau khi điều trị bằng nội khoa kết hợp với hóa xạ trị tình trạng của bệnh nhân tiến triển tốt hơn: đỡ đau vùng cổ xương đùi phải, không vàng da, không khó thở. Bệnh nhân vẫn phải ngồi xe lăn do không vận động được khớp háng bên phải.
Xét nghiệm công thức máu: kiểm tra định kỳ sau mỗi đợt hóa trị, bệnh nhân có triệu chứng hạ bạch cầu mức độ 3,4, đã được điều trị ổn định sau khi dùng thuốc hỗ trợ kích thích tăng bạch cầu Leukokin 300ucg x 2 lọ tiêm bắp trong 2 ngày liên tiếp.
Xét nghiệm sinh hóa máu: Bilirubin, GOT, GPT, chức năng thận gan binh thường.
CHỤP PET/CT LẦN 3 (sau 6 chu kỳ hóa chất).
Hình ảnh so sánh giữa 3 lần chụp PET/CT (hình ảnh tổng thể lần lượt từ trái sang phải – lần 1, lần 2, lần 3 )
Hình ảnh so sánh giữa 3 lần chụp PET/CT (hình ảnh vùng chậu): Tổn thương u nguyên phát vùng cổ xương đùi phải: kích thước và độ hấp thu FDG giảm dần sau mỗi lần chụp PET/CT. Không còn tổn thương di căn hạch tiểu khung trên hình chụp sau.
Hình ảnh so sánh giữa 3 lần chụp PET/CT (hình ảnh vùng ngực): Nốt di căn 2 phổi mất dần sau lần chụp thứ 2, không còn sau lần chụp thứ 3
Hình ảnh so sánh giữa 3 lần chụp PET/CT (hình ảnh vùng chậu, đùi): Tổn thương u nguyên phát vùng cổ xương đùi phải: kích thước và độ hấp thu FDG giảm dần sau mỗi lần chụp PET/CT
Hình ảnh so sánh giữa 3 lần chụp PET/CT (hình ảnh hạch chậu): Tổn thương hạch ổ bụng có kích thước và độ hấp thu FDG giảm dần sau mỗi lần chụp PET/CT, không còn thấy ở lần chụp thứ 3.
Hình ảnh so sánh giữa 3 lần chụp PET/CT (hình ảnh hạch chậu 2): Tổn thương hạch ổ bụng có kích thước và độ hấp thu FDG giảm dần sau mỗi lần chụp PET/CT, không còn thấy ở lần chụp thứ 3.
Hình ảnh so sánh giữa 3 lần chụp PET/CT (hình ảnh cổ xương đùi phải, gan, tủy xương): Tổn thương vùng cổ xương đùi phải có kích thước và độ hấp thu FDG giảm dần sau mỗi lần chụp PET/CT, không còn thấy ở lần chụp thứ 3.
Tổn thương tủy xương không còn thấy ở lần chụp thứ 2 và 3.
Hình ảnh so sánh giữa 3 lần chụp PET/CT (hình ảnh di căn phổi): Tổn thương hạch trung thất và di căn hai phổi có kích thước, số lượng và độ hấp thu FDG giảm dần sau mỗi lần chụp PET/CT, không còn thấy ở lần chụp thứ 3.
So sánh giữa 3 lần chụp PET/CT (hình ảnh hạch trung thất, di căn phổi): Tổn thương hạch trung thất và di căn hai phổi có kích thước, số lượng và độ hấp thu FDG giảm dần sau mỗi lần chụp PET/CT, không còn thấy ở lần chụp thứ 3.
So sánh giữa 3 lần chụp PET/CT (hình ảnh u gan): Tổn thương gan có kích thước và độ hấp thu FDG giảm dần sau mỗi lần chụp PET/CT, không còn thấy ở lần chụp thứ 3.
Lâm sàng
Lâm sàng
Cân nặng 40kg, đau rất nhiều, mệt mỏi, da xanh, niêm mạc nhợt, vàng da tắc mật. Ngồi xe lăn
Cân nặng 53kg, không đau, người nhanh nhẹn, da niêm mạc hồng. Hết vàng da tắc mật. Ngồi xe lăn.
Cận lâm sàng
Cận lâm sàng
Công thức máu: Hồng cầu: 3,1 T/L; Hemoglobin: 67 G/L; Tiểu cầu: 128 G/L
Bạch cầu: 14 G/L; Huyết sắc tố: 54%
Sinh hóa máu: Albumin giảm, Bilirubin tăng cao
Công thức máu: Hồng cầu: 3,8; Hemoglobin 112 G/L; Tiểu cầu: 328 G/L
Bạch cầu: 8,4 G/L; Huyết sắc tố: 38%
Sinh hóa máu: Albumin giảm, Bilirubin bình thường
Chỉ điểm ung thư: CEA: 112 ng/ml
Chỉ điểm ung thư: CEA: 3,2 ng/ml
PET/CT
PET/CT
Khối u ác tính phần mềm vùng cổ xương đùi phải xâm lấn xương, di căn hạch ổ bụng, di căn hạch trung thất, gan xương và phần mềm đa ổ
Chỉ còn tăng hấp thu FDG nhẹ tại vị trí cổ xương đùi phải.
Các cơ quan và bộ phận còn lại không thấy tổn thương.
Như vậy, bệnh nhân đã đáp ứng tốt sau điều trị với các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng cải thiện rõ rệt
Tuy nhiên: bệnh nhân vẫn đang phải ngồi xe lăn
Hướng điều trị tiếp theo:
Tiếp tục hóa trị, thuốc chống hủy xương.
Hội chẩn chuyên khoa phẫu thuật chấn chương thay cổ xương đùi phải.
Bệnh nhân được phẫu thuật thay chỏm xương đùi phải tại bệnh viện Việt Đức
Vật lý trị liệu sau phẫu thuật và tập đi lại
Hiện tại sau phẫu thuật 2 tháng: bệnh nhân khỏe mạnh, đi lại một mình, tự chăm sóc và làm việc nhà:
Khám lâm sàng:
Lâm sàng:
* Cơ năng: chỉ còn đau nhẹ vùng cổ xương đùi phải sau phẫu thuật, không vàng da, không sốt, không khó thở.
* Thực thể:
+ Còn hạn chế động tác dạng khớp háng bên phải ra ngoài, hạn chế động tác xoay trong và xoay ngoài. Cơ lực tốt.
+ Dấu hiệu thiếu máu không còn
+ Dấu hiệu vàng da, tắc mật đã hết
* Toàn thân: gầy (cân nặng=56kg), không phù, không xuất huyết, da niêm mạc hồng.
Cận lâm sàng:
1 – Công thức máu: Hồng cầu: 4,2T/L; Hemoglobin: 147G/L; Tiểu cầu: 235G/L; Bạch cầu: 8,3 G/L (bạch cầu trung tính: 5,2 G/L).
2 – Sinh hóa máu: Albumin, Ure, Creatinin, GOT và GPT bình thường
3 – Chỉ điểm ung thư: CEA=6,7 ng/ml
Chụp PET/CT:
So sánh kết quả chụp PET/CT lần 1 và 4 (vùng chậu): Chỉ còn tăng hấp thu FDG nhẹ tại cổ xương đùi phải dạng sinh lý sau phẫu thuật. Các tổn thương khác không thấy tồn tại
So sánh kết quả chụp PET/CT lần 1 và 4 (vùng cổ xương đùi)
So sánh kết quả chụp PET/CT lần 1 và 4 (vùng chậu – đùi): Không còn di căn phần mềm
So sánh kết quả chụp PET/CT lần 1 và 4 (vùng gan): Không còn di căn gan
So sánh kết quả chụp PET/CT lần 1 và 4 (vùng ngực): Không còn di căn hạch rốn phổi và nốt di căn hai phổi
Sau khi được hội chẩn qua hội đồng giáo sư tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu bệnh viện Bạch Mai bệnh nhân được lựa chọn và đồng ý điều trị theo phác đồ hóa chất AI thêm 3 chu kỳ:
Cụ thể:
Doxorubicin 50mg/m2; Ifosfamide 5g/m2; Mesna 600mg/m2 truyền tĩnh mạch ngày 1.
Hiện tại: bệnh nhân tự đi xe máy đến bệnh viện kiểm tra sức khỏe, đi bộ 500m một ngày, đi làm ở cơ quan trở lại như trước.
Vẫn đúng theo lịch hẹn khám, bệnh nhân được kiểm tra định kỳ đều đặn: làm xét nghiệm máu cơ bản, siêu âm, chụp cắt lớp vi tinh bụng-chậu cho kết quả hoàn toàn bình thường. Bệnh nhân trở lại cuộc sống và sinh hoạt gần như trước khi mắc bệnh.
Đến ngày 21/12/2015: bệnh nhân chụp PET/CT toàn thân kiểm tra.
Kết quả: hình ảnh tổn thương phần mềm xung quanh chỏm xương đùi phải, hạch ổ bụng, hạch góc hàm, hạch thượng đòn tăng hấp thu FDG.
Kết quả chụp PET/CT lần thứ 5 (hình ảnh tổng thể)
Kết quả chụp PET/CT lần thứ 5 (vùng đùi): Phần mềm xung quanh chỏm xương đùi phải tăng hấp thu FDG, max SUV=6,3
Kết quả chụp PET/CT lần thứ 5 (vùng đầu cổ)
Hạch góc hàm phải kích thước 1,4cm tăng hấp thu FDG, max SUV=3,7
(Hình ảnh mỡ nâu tăng hấp thu FDG tại vùng cổ thấp hai bên, mũi tên vàng)
Kết quả chụp PET/CT lần thứ 5 (vùng thượng đòn và tiểu khung)
(Hình ảnh mỡ nâu tăng hấp thu FDG tại hố thượng đòn hai bên, mũi tên đỏ)
Hạch sau cơ thắt lưng chậu phải kích thước 1,2cm, SUV=4,0 (mũi tên vàng).
Sau khi các bác sĩ hội chẩn hội đồng các giáo sư và trao đổi chuyên môn với đại diện gia đình bệnh nhân với quyết định: kiểm tra đánh giá lại sau 3-6 tháng.
Kết quả chụp PET/CT ngày 17/5/2016 (sau gần 6 tháng): hạch cạnh cơ thắt lưng chậu phải, phần mềm quanh chỏm xương đùi phải hấp thu FDG nhẹ (kích thước và mức độ hấp thu FDG giảm hơn nhiều so với kết quả chụp ngày 21/12/2015).
Hình ảnh chụp PET/CT tổng thể lần thứ 7 (bên trái), lần thứ 6 (bên phải).
So sánh kết quả chụp PET/CT lần thứ 7 (hình trên) và 6 (hình dưới): Sau lần chụp ngày 17/5/2016: Hình ảnh mỡ nâu hai bên cổ, thượng đòn, dọc cột sống không còn. Hạch sau cơ thắt lưng phải giảm kích thước và mức hấp thu FDG (KT: 1,0cm, SUV=2,3).
So sánh kết quả chụp PET/CT lần thứ 6 (bên dưới) và 7 (bên trên): Phần mềm quanh cổ xương đùi phải giảm hấp thu so với lần chụp trước đó
Tổ chức mỡ nâu dọc hai bên côt sống cũng không còn.
Hình ảnh so sánh kết quả chụp PET/CT lần thứ 6 (bên trên) và 7 (bên dưới): Không thấy tổ chức quanh chỏm xương đùi phải và hạch góc hàm phải tăng hấp thu FDG như lần chụp trước.
(Qua kiểm tra lại hồ sơ bệnh án trước khi chụp PET/CT ngày 21/12/2015: thời gian gần đến ngày chụp PET/CT, bệnh nhân có tăng vận động quá mức hai chi dưới như đi bộ nhanh và nhiều, đạp xe với cường độ lớn. Trong khi chụp bệnh nhân có bị căng thẳng tâm lý).
Đến nay, bệnh nhân vẫn đi làm và mọi sinh hoạt gần như một người bình thường.
Như vậy, kết quả khám và chụp PET/CT cho thấy các tổn thương cũ ở lần chụp PET/CT ngày 21/12/2015 đích thực là tổn thương viêm do quá trình vận động cơ học.
Kết luận: hiện tại bệnh ổn định. Đề nghị tiếp tục theo dõi định kỳ.
Đến nay, bệnh nhân vẫn đang làm việc và sinh hoạt bình thường, công tác tại cơ quan và giữ vai trò nhất định trong đơn vị.
http://ungthubachmai.com.vn
Trung Tâm Y Học Hạt Nhân Và Ung Bướu
Tôi vừa được xuất viện, trở lại làm việc bình thường trong tình trạng sức khoẻ hồi phục rất tốt sau hơn 2 tháng điều trị ung thư thực quản giai đoạn 3 – 4 tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu – Bệnh viện Bạch Mai (TTUBBM).
Sự tuyệt vọng
Tôi vốn bị bệnh tim mạch, tăng huyết áp, hẹp 4 khúc thân mạch vành, bloc nhánh trái hoàn toàn… Tháng 11/2009, tôi nuốt bị nghẹn, bệnh cảnh ngày một tăng dần. Loanh quanh các bệnh viện với nhiều chẩn đoán khác nhau: bị viêm loét thực quản, bị trào ngược dạ dày, bị chèn ép dây thần kinh số 9…(?) rồi tôi bị ru ngủ bởi một kết quả chụp Xquang có uống thuốc cản quang kết luận rằng tôi “không có u cục gì”. Thật đáng tiếc tôi không được chỉ định nội soi sớm, loay hoay mất gần nửa năm, chứng nuốt nghẹn ngày càng tồi tệ hơn, thậm chí đã đến lúc… nuốt sữa cũng bị nghẹn!
Bệnh nhân Phan Huy Tường đang được xạ trị trên máy gia tốc điều biến liều (từ trái sang phải: BS. Phạm Văn Thái và KTV Đỗ Trình Sa). Ảnh: Kim Vinh
Cho đến ngày “nguyệt tận” của tháng 4 tôi mới đi làm nội soi và bấm sinh thiết ở Bệnh viện 108, kết quả là tôi đã bị ung thư biểu mô vảy không sừng hoá. Tôi vô cùng hoảng hốt những mong đó không phải là sự thật. Tôi làm tiếp nội soi và lấy vi thể, lần này Bộ môn Giải phẫu bệnh Đại học Y Hà Nội vẫn có chung một kết luận như vậy. Gần nửa năm vòng vo, lại thêm chờ đợi hết một kỳ nghỉ lễ dài ngày, tôi hốt hoảng chạy đua thục mạng với nguy cơ di căn.
Một số vị trong ngành y khuyên tôi phải mổ vì may mà khối u của tôi ở 1/3 thực quản dưới và chỉ có thể mổ vì ung thư biểu mô thực quản xạ trị không ăn thua gì!?
Thế là xác định tôi phải mổ (nghe đâu phải cắt bỏ phần thực quản dưới nối với ruột non, bỏ qua dạ dày vì khối u của tôi sát với dạ dày nối dễ bị dò). Vị giáo sư nổi tiếng là người cầm dao mổ hàng đầu của ta hiện nay nhận lời mổ cho tôi, nhưng tôi phải vượt qua được 7 cuộc “sát hạch” sức khoẻ nghiệt ngã trước mổ tại các bệnh viện: Việt Đức, Đại học Y, K và Bạch Mai. Cuối cùng tôi “thi trượt”, không mổ được vì bị vôi hoá mạch vành.
Phẫu trị không được, xạ trị không xong, lúc này tâm trạng tôi hoảng loạn đến tột đỉnh. Lâm bệnh thì phải vái tứ phương, tôi nhờ người thân đi tìm “cao thủ” tư vấn thì nhận được câu trả lời xanh rờn: “Đã ung thư lại còn bị xơ vữa mạch vành thì chữa gì nữa, thôi hãy ở lại vui vẻ với gia đình vài tháng nữa thôi”. Tìm đến “dương trợ” thì như vậy, quá tuyệt vọng, tôi tìm đến “âm phù” thì lại đụng phải một ông thầy tử vi phán như đinh đóng cột: “Không qua khỏi tháng 5 này đâu”?!
Gặp thầy gặp thuốc
Cả nhà lo sốt vó, sục sạo trên mạng, tình cờ tìm được trang web chúng tôi thì được biết Trung tâm Ung bướu Bạch Mai đang sở hữu những máy móc tối tân ứng dụng các thành tựu y học công nghệ cao và đã điều trị thành công nhiều ca ung thư thực quản. Ngay lập tức tôi xin nhập viện trong tâm trạng không mấy tin tưởng và ngao ngán trước tình trạng quá tải và cơ sở vật chất thiếu thốn!
Ngay ngày hôm sau, tôi được chụp kiểm tra bằng máy PET/CT. Đây là một công nghệ cao, giá cũng cao ngất ngưởng: 28.200.000đ/lần chụp, chưa được trừ bảo hiểm. Lúc này tôi đang ở trong tình trạng sắp “chết đói” vì thực quản đã bị bít chặt lại rồi, hoặc phải mở thông dạ dày ăn qua đường ống sonde hoặc phải đặt stent nong thực quản!
Ngay khi nhập viện, tôi được các chúng tôi tại Trung tâm Ung bướu – Bệnh viện Bạch Mai giải thích và thông báo cho biết tôi sẽ được áp dụng những kỹ thuật xạ trị hiện đại có sử dụng hình ảnh của PET/CT (Positron Emission Tomography) để làm mô phỏng và lập kế hoạch xạ trị trên máy gia tốc với kỹ thuật xạ trị điều biến liều (Intensity Modulated Radiation Therapy – IMRT). Qua tìm hiểu, tôi được biết những công nghệ cao này chỉ có thể thực hiện được ở một số nước phát triển, một số nước trong khu vực châu Á cũng chưa tiến hành được kỹ thuật đó. Vậy mà Trung tâm Ung bướu – Bệnh viện Bạch Mai của ta đã làm chủ được kỹ thuật hiện đại này. May mà tôi đã bỏ kế hoạch đi Singapore hay Quảng Châu theo gợi ý của một số người, nếu không thì đã mất toi tiền tỷ! Bởi vì rõ ràng ở Bệnh viện Bạch Mai chẳng thua kém gì nếu không muốn nói là có phần hơn (trừ điều kiện cung cấp dịch vụ y tế).
Hình ảnh khối u thực quản trước
điều trị trên phim chụp PET/CT. Sau điều trị không còn khối u.
Tôi được xạ trị trên máy gia tốc điều biến liều với liệu trình 30 mũi, liên tục 6 mũi/1tuần từ một kế hoạch xạ trị trên toạ độ mô phỏng mà chùm tia xạ được tính toán chính xác đến từng milimet. Đến mũi thứ 25, tôi bắt đầu cảm thấy nuốt đỡ nghẹn, càng về sau càng “thông thoáng” từng ngày. Hết liệu trình, tôi ăn uống trở lại gần như bình thường. Tôi đã được kiểm tra tổng thể phần tim mạch sau xạ trị, kết quả cho thấy không hề hấn gì, nghĩa là tôi đã được các giáo sư, bác sĩ ở đây điều trị với một kế hoạch xạ trị tài tình đến mức không gây tổn thương cho các tế bào lành khi mà khối u của tôi khu trú tại một vùng đặc biệt nhạy cảm như ở vùng trung thất.
Kết thúc liệu trình xạ trị, ngày 21/7/2010, kết quả PET/CT kiểm tra lần cuối cho thấy khối u của tôi đã tan hết, không còn tìm thấy dấu vết tế bào ung thư trong cơ thể!
Như vậy, chỉ trong vòng 9 tuần lễ, tôi đã được Trung tâm Ung bướu Bệnh viện Bạch Mai cứu thoát khỏi căn bệnh ung thư được coi là nan y mà hầu như không có phản ứng phụ gì.
Thay lời kết
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
– chúng tôi Đỗ Doãn Lợi (Phó Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai).
– chúng tôi Mai Trọng Khoa (Phó Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai – Giám đốc Trung tâm Y học Hạt nhân và Ung bướu BVBM).
– chúng tôi nội trú Phạm Văn Thái và kỹ sư vật lý Trần Văn Thống.
– KTV xạ trị máy gia tốc điều biến liều Đỗ Trình Sa và cộng sự.
– chúng tôi Nguyễn Thị The, chuyên gia đọc hình ảnh PET/CT. Và các y tá, CBCNV khác của trung tâm
Thành công kỳ diệu ngoài sức tưởng tượng này có được do những thành tựu y học hiện đại, công nghệ cao điển hình là máy chụp PET/CT và máy xạ trị gia tốc điều biến liều mà TTUBBM đang sở hữu và các giáo sư, bác sĩ ở đây đã chứng tỏ đầy đủ bản lĩnh của mình trong ứng dụng điều trị. Đáng tiếc là giá thành quá cao, nếu không được chi trả bảo hiểm y tế thì sẽ thiệt thòi cho nhiều người bệnh vì họ ít có cơ hội được tiếp cận với công nghệ cao này.
Nhân đây, là người trong cuộc, tôi thiết tha đề nghị Liên Bộ Y tế -Tài chính cần xem xét chi trả bảo hiểm cho các dịch vụ công nghệ cao trong điều trị bệnh ung thư ngõ hầu dành nhiều cơ hội sống sót cho nhiều người bệnh, đặc biệt là bệnh nhân nghèo.
Tôi cũng xin lạm bàn đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét nâng cấp Trung tâm Y học Hạt nhân và Ung bướu Bạch Mai lên một tầm quy mô mới để tương xứng với năng lực và những thành tựu rực rỡ mà Trung tâm đã đạt được và đó cũng là kỳ vọng của đông đảo người bệnh, nhất là trong tình trạng quá tải như hiện nay.
Qua bài viết, tôi muốn nhắn gửi đến những người không may mắc phải căn bệnh ung thư quái ác này hãy bình tĩnh, hãy tin rằng ung thư không còn là căn bệnh nan y, hoàn toàn có thể chữa khỏi, hoàn toàn có thể “cải tử hoàn sinh” với chất lượng sống được cải thiện rõ rệt.
Phan Huy Tường
Cập nhật thông tin chi tiết về Kết Quả Sau 10 Năm Điều Trị U Màng Não Thất Bằng Dao Gamma Quay Tại Trung Tâm Y Học Hạt Nhân Và Ung Bướu, Bệnh Viện Bạch Mai trên website Sept.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!