Xu Hướng 12/2023 # Các Yếu Tố Nguy Cơ Gây Ra Ung Thư Dạ Dày # Top 12 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Các Yếu Tố Nguy Cơ Gây Ra Ung Thư Dạ Dày được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Sept.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Ung thư dạ dày gặp ở nam nhiều hơn ở phụ nữ.

Tỉ lệ mắc bệnh ung thư dạ dày tăng lên rõ rệt ở những người trên 50 tuổi. Hầu hết mọi người được chẩn đoán mắc bệnh ung thư dạ dày ở độ tuổi 60 – 80. Tuy nhiên, bệnh có xu hướng được phát hiện ở người trẻ tuổi ngày càng tăng và thường có tiên lượng xấu.

Tại Hoa Kỳ, ung thư dạ dày phổ biến hơn ở người Mỹ gốc Tây Ban Nha, người Mỹ gốc Phi, và Mỹ gốc Châu Á / Thái Bình Dương hơn là ở người da trắng không gốc Tây Ban Nha.

Trên thế giới, ung thư dạ dày phổ biến hơn ở Nhật Bản, Trung Quốc, Nam và Đông Âu, Nam và Trung Mỹ. Bệnh ít phổ biến ở Bắc và Tây Phi, Nam Trung Á và Bắc Mỹ.

Nhiễm Helicobacter pylori (H. pylori) dường như là nguyên nhân chính gây ung thư dạ dày, đặc biệt là ung thư ở phần dưới (xa) của dạ dày. Nhiễm H. pylori lâu ngày có thể dẫn đến viêm và làm thay đổi tiền ung thư niêm mạc dạ dày. Trong thực tế, các bệnh nhân ung thư dạ dày thường có tỷ lệ nhiễm H. pylori cao hơn những người không bị ung thư dạ dày. Mặc dù vậy, hầu hết những người nhiễm HP không bao giờ mắc ung thư.

U mô bạch huyết kết hợp với niêm mạc (MALT) có nguy cơ cao mắc ung thư biểu mô tuyến của dạ dày. Đây có lẽ do u MALT của dạ dày nhiễm vi khuẩn H pylori.

Nguy cơ ung thư dạ dày tăng cao ở những người có chế độ ăn một lượng lớn các loại thực phẩm hun khói, cá và thịt muối, rau muối.

Hút thuốc và uống rượu làm tăng nguy cơ ung thư dạ dày, đặc biệt đối với các ung thư phần trên dạ dày gần thực quản. Tỷ lệ ung thư dạ dày gấp đôi ở người hút thuốc.

Thừa cân hoặc béo phì có khả năng là nguyên nhân gây ung thư tâm vị (phần trên của dạ dày gần thực quản).

Ung thư dạ dày có nhiều khả năng phát triển ở những người đã cắt một phần dạ dày để điều trị bệnh không phải ung thư chẳng hạn như loét. Loại ung thư này thường phát triển trong nhiều năm sau khi phẫu thuật.

Cùng với thiếu máu (quá ít hồng cầu), người mắc bệnh này tăng nguy cơ mắc ung thư dạ dày.

Bệnh Menetrier (viêm dạ dày phì đại) là bệnh rất hiếm nên không biết chính xác bệnh này làm tăng nguy cơ ung thư dạ dày đến mức nào.

Người máu A có nguy cơ cao bị ung thư dạ dày dù chưa rõ nguyên nhân.

Một số bệnh di truyền có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư dạ dày.

E-cadherin/CDH1 = Ung thư dạ dày lan tỏa di truyền: Mặc dù hiếm, những người thừa hưởng đột biến gen này có 70-80% nguy cơ phát bệnh ung thư dạ dày trong suốt cuộc đời của họ. Ngoài ra, phụ nữ có khiếm khuyết di truyền này làm tăng nguy cơ ung thư vú.

Đa polyp tuyến gia đình (FAP). Hội chứng này gây ra polyp đại tràng, dạ dày và ruột. Hội chứng này thường gây ra bởi đột biến của gen APC, làm tăng đáng kể nguy cơ ung thư đại trực tràng và có thể đóng một vai trò nhỏ trong việc gia tăng nguy cơ ung thư dạ dày của một người.

BRCA1 và BRCA2: Đột biến di truyền ở các gen BRCA1 và BRCA2 thường gắn liền với nguy cơ cao mắc ung thư vú. Những người được thừa hưởng những đột biến di truyền cũng có nguy cơ gia tăng ung thư dạ dày.

Hội chứng Li-Fraumeni: Những người bị hội chứng này có nguy cơ gia tăng của một số loại ung thư, bao gồm cả việc phát triển bệnh ung thư dạ dày ở độ tuổi tương đối trẻ. Hội chứng Li-Fraumeni được gây ra bởi một đột biến ở gen TP53.

Hội chứng Peutz-Jeghers (PJS). Những người có hội chứng này phát triển polyp ở dạ dày và ruột, cũng như ở các cơ quan khác bao gồm mũi, đường hô hấp và bàng quang. Các polyp ở dạ dày và ruột là một loại đặc biệt gọi là u mô đệm (hamartoma). Nó có thể gây chảy máu hoặc tắc ruột. PJS cũng có thể gây ra các đốm tàn nhang đậm giống như trên môi, bên trong má và các vùng khác. Những người có PJS có nguy cơ cao mắc bệnh ung thư vú, đại tràng, tuyến tụy, dạ dày và một số cơ quan khác. Hội chứng này được gây ra bởi đột biến ở gen STK1.

Những người có người thân kế cận (cha mẹ, anh chị em, hoặc con) bị ung thư dạ dày có nhiều khả năng phát triển bệnh này.

Hầu hết polyp không phải ung thư trên niêm mạc dạ dày (như polyp tăng sản hoặc polyp viêm) dường như không làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư dạ dày, nhưng polyp tuyến – còn gọi là u tuyến – đôi khi có thể phát triển thành ung thư.

EBV gây bệnh nhiễm trùng do tăng bạch cầu đơn nhân. Hầu như tất cả người lớn đã bị nhiễm virus này tại một số thời điểm trong cuộc đời của họ, thường là trẻ em hoặc thanh thiếu niên.

Công nhân mỏ than đá, kim loại và các ngành công nghiệp cao su dường như có nguy cơ cao bị ung thư dạ dày.

Mục tiêu của phẫu thuật là để cắt bỏ tất cả các mô ung thư dạ dày và có một bờ cắt lành (không còn tế bào ung thư).

Tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park (TP. HCM) áp dụng kỹ thuật mới – Phẫu thuật ít xâm lấn bằng robot (robotic surgery) với robot cầm tay điều trị ung thư dạ dày.

Phương pháp này đang có nhiều ưu thế so với cả phẫu thuật nội soi kinh điển và mổ robot với: Dụng cụ có đầu phẫu thuật hoạt động linh hoạt như khớp cổ tay giúp tiếp cận được những góc hẹp, tăng khả năng bóc tách và ít gây tổn thương cho các vùng lân cận so với phẫu thuật nội soi cổ điển; Đèn nội soi tự động hóa qua giọng nói, laser, theo dõi bằng mắt,… giúp bác sĩ chủ động điều khiển và có tầm nhìn và sự kiểm soát tốt hơn, tăng sự chính xác và an toàn trong thực hiện phẫu thuật; Với ưu điểm nhỏ gọn, phẫu thuật bằng cánh tay robot ít xâm lấn và có nhiều lợi điểm như đường mổ nhỏ, ít đau, nguy cơ nhiễm trùng thấp, từ đó giúp khách hàng ít mất máu trong phẫu thuật, phục hồi nhanh; Chi phí thực hiện thấp hơn nhiều phẫu thuật bằng robot.

Người bệnh sẽ được tư vấn và điều trị cùng các bác sĩ nội soi giàu kinh nghiệm và được trực tiếp phẫu thuật bởi bác sĩ Đỗ Minh Hùng – Trưởng khoa Ngoại Tổng hợp – Bệnh viện ĐKQT Vinmec Central Park. Bác sĩ Hùng đã có hơn 25 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực Ngoại Tổng quát và thực hiện hàng chục công trình nghiên cứu khoa học có giá trị, công bố nhiều kỹ thuật phẫu thuật độc đáo, mang lại hiệu quả điều trị tích cực.

Để đăng ký khám và điều trị tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park, Quý Khách vui lòng liên hệ Hotline: 0283 6221 166 hoặc đăng ký trực tuyến TẠI ĐÂY.

Các Yếu Tố Nguy Cơ Gây Ung Thư Dạ Dày

Nguy cơ phát triển ung thư dạ dày tăng lên theo tuổi tác. Những người có tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư cũng có thể có nguy cơ cao hơn.

Các yếu tố nguy cơ ung thư dạ dày phổ biến bao gồm:

Tuổi tác: Ung thư dạ dày thường được phát hiện ở những người trên 55 tuổi.

Giới tính: Bệnh ảnh hưởng đến nam giới gấp đôi nữ giới.

Chủng tộc: Ung thư dạ dày phổ biến ở người Mỹ gốc Phi hơn người da trắng.

Khu vực: Loại ung thư này phổ biến hơn ở một số nơi trên thế giới, chẳng hạn như Nhật Bản, Hàn Quốc, một số khu vực của Đông Âu và Mỹ Latinh. Người dân ở những khu vực này ăn nhiều thực phẩm được bảo quản bằng cách sấy khô, hun khói, ướp muối hoặc ngâm chua.

E-cadherin / CDH1: Mặc dù rất hiếm nhưng những người thừa hưởng đột biến di truyền này có 70 đến 80% nguy cơ phát triển ung thư dạ dày trong cuộc đời của họ. Ngoài ra, phụ nữ có khiếm khuyết di truyền này có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn.

Bệnh đa polyp tuyến gia đình (FAP): Hội chứng này gây ra các khối u ở đại tràng, dạ dày và ruột. Thường do đột biến gen APC gây ra, hội chứng này làm tăng đáng kể nguy cơ ung thư đại trực tràng của một người và có thể đóng một vai trò nhỏ trong việc tăng nguy cơ ung thư dạ dày của một người.

Hút thuốc: Một số bằng chứng cho thấy hút thuốc lá với nhiều loại ung thư, bao gồm cả ung thư dạ dày. Những người hút thuốc có nguy cơ phát triển ung thư cao hơn những người không hút thuốc.

Chế độ ăn uống: Các nhà khoa học tin rằng ăn thực phẩm chế biến sẵn có thể đóng một vai trò trong sự phát triển của ung thư dạ dày. Mặt khác, thực phẩm tươi (đặc biệt là trái cây và rau tươi và thực phẩm tươi được đông lạnh hoặc làm lạnh đúng cách) có thể bảo vệ chống lại bệnh này.

Nhiễm H. pylori: Các bác sĩ đã phát hiện ra rằng nhiễm H. pylori lâu dài có thể dẫn đến viêm và những thay đổi tiền ung thư đối với niêm mạc dạ dày. Trên thực tế, bệnh nhân ung thư dạ dày thường có tỷ lệ nhiễm H. pylori cao hơn những người không bị ung thư dạ dày.

Thiếu máu ác tính: Một số người bị thiếu máu ác tính có thể bị polyp dạ dày, làm tăng nguy cơ ung thư dạ dày.

Nhiễm vi rút Epstein-Barr : Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, vi rút Epstein-Barr được tìm thấy trong tế bào ung thư của khoảng 5% đến 10% những người bị ung thư dạ dày.

Để chủ động bảo vệ sức khoẻ bản thân, bạn còn cần trang bị cho cho mình những ứng dụng chăm sóc sức khoẻ Online để theo dõi tình hình sức khoẻ hàng ngày, hàng giờ, nhờ đó có thể phát hiện và ngăn chặn kịp thời những diễn biến xấu của bệnh.

Website: https://myhealth.com.vn/

Các Yếu Tố Nguy Cơ Gây Ung Thư Vú

Yếu tố nguy cơ là yếu tố ảnh hưởng tới khả năng bị bệnh. Các loại ung thư khác nhau có các yếu tố nguy cơ khác nhau. Ví dụ, da tiếp xúc với ánh sáng mặt trời cường độ mạnh là một yếu tố nguy cơ gây ung thư da. Hút thuốc là yếu tố nguy cơ gây ung thư phổi, miệng, thanh quản, bàng quang, thận và một số cơ quan khác.

Tuy nhiên yếu tố nguy cơ không cho biết tất cả. Có một hoặc thậm chí một vài yếu tố nguy cơ không có nghĩa rằng bạn sẽ mắc bệnh. Phần lớn những phụ nữ có một hoặc một vài yếu tố nguy cơ gây ung thư vú không bao giờ mắc bệnh, trong khi nhiều phụ nữ mắc ung thư trong khi không có yếu tố nguy cơ nào (ngoài việc là một phụ nữ và đang già đi). Thậm chí khi một người phụ nữ có các nguy cơ mắc ung thư, cũng khó để biết rằng cần phải có bao nhiêu yếu tố để mắc bệnh.

1. Yếu tố nguy cơ không thể thay đổi

Giới tính nữ là yếu tố nguy cơ chính gây ung thư vú. Nam giới có thể mắc ung thư vú nhưng căn bệnh này phổ biến ở nữ hơn 100 lần so với nam. Điều này có thể do nam giới có ít hormon nữ (estrogen và progesteron) hơn trong khi các hormon này có thể thúc đẩy sự phát triển của tế bào ung thư vú.

Nguy cơ phát triển ung thư vú tăng lên theo độ tuổi. Khoảng 1/8 ca ung thư xâm lấn xảy ra ở phụ nữ dưới 45 tuổi trong khi 2/3 số ca ở phụ nữ trên 55 tuổi.

Khoảng 5-10% ca ung thư vú được cho là di truyền, có nghĩa là ung thư là kết quả trực tiếp từ các sai sót trong bộ gen (đột biến) di truyền từ bố hoặc mẹ.

ADN là một chất hóa học tồn tại trong mỗi tế bào của cơ thể, tạo nên bộ gen – mã hóa cho các chức năng của tế bào. Chúng ta thường trông giống với cha mẹ do cha mẹ là nguồn gen của chúng ta. Tuy vậy ADN không chỉ ảnh hưởng tới vẻ ngoài.

Một số gen quy định khi nào các tế bào sinh trưởng, nhân đôi thành các tế bào mới và chết đi. Gen làm tăng nhanh sự nhân đôi các tế bào được gọi là oncogen. Các gen làm chậm quá trình nhân đôi hoặc gây chết các tế bào vào thời gian thích hợp, được gọi là các gen ức chế khối u. Một số biến đổi (đột biến) trong ADN gây hoạt hóa các oncogen hoặc bất hoạt các gen ức chế khối u có thể biến tế bào tuyến vú bình thường trở thành tế bào ung thư.

Một số đột biến ADNdi truyền có thể tăng đột ngột nguy cơ phát triển ung thư và là nguyên nhân gây ra ung thư di truyền trong gia đình. Ví dụ, gen BRCA (BRCA1 và BRCA2) là các gen ức chế khối u. Đột biến ở một trong số các gen này có thể được di truyền từ bố mẹ. Khi một trong số các gen này bị đột biến, không còn yếu tố ức chế sự phát triển bất thường, ung thư có nguy cơ phát triển hơn.

Hiện nay, phụ nữ đã bắt đầu được hưởng lợi ích từ việc hiểu được cơ sở di truyền của ung thư vú. Xét nghiệm gen có thể xác định người có đột biến di truyền trên gen ức chế khối u BRCA1 hoặc BRCA2 (hoặc hiếm hơn là đột biến trên gen khác như PTEN hoặc TP53). Những người này có thể áp dụng các biện pháp để giảm thiểu nguy cơ phát triển của ung thư vú và theo dõi sự thay đổi ở tuyến vú một cách thận trọng để phát hiện ung thư ở giai đoạn sớm, có khả năng chữa trị cao hơn.

Xét nghiệm đột biến điểm mắc phải có thể giúp bác sĩ đánh giá chính xác hơn tình trạng ung thư vú. Ví dụ, xét nghiệm có thể xác định những người mắc ung thư vú có quá nhiều oncogen HER2, với những trường hợp này ung thư có xu hướng ác tính hơn. Đồng thời các thuốc được phát triển với đích tác dụng đặc biệt trên loại ung thư này và đã được chứng minh hiệu quả.

BRCA1 và BRCA2 : Nguyên nhân thường gặp nhất gây ung thư vú mang tính di truyền là đột biến di truyền trên gen BRCA1 và BRCA2. Ở các tế bào thường, các gen này giúp ngăn ngừa ung thư bằng cách tổng hợp các protein ngăn tế bào phát triển bất thường. Người mang bản sao đột biến của các gen này di truyền từ bố mẹ có nguy cơ cao mắc ung thư cao hơn trong suốt cuộc đời.

Mặc dù ở một số gia đình mang gen đột biến BRCA1, nguy cơ ung thư vú trong suốt cuộc đời khoảng 80%, trong khi trung bình nguy cơ này nằm trong khoảng 55 – 65%. Với gen BRCA2 đột biến, nguy cơ mắc bệnh thấp hơn, khoảng 45%.

Ở Mỹ, đột biến trên gen BRCA phổ biến ở người Do Thái có nguồn gốc Ashkenazi (Đông Âu) hơn các nhóm chủng tộc và dân tộc khác, tuy vậy điều này có thể xảy ra ở bất kỳ ai.

Biến đổi các gen khác : Các đột biến gen khác cũngcó thể dẫn tới ung thư vú di truyền. Các đột biến gen này hiếm hơn nhiều và thường không làm tăng nguy cơ ung thư vú nhiều như đột biến trên gen BRCA và không phải nguyên nhân thường gặp của ung thư vú di truyền.

Ở những người phụ nữ mà trong gia đình có người quan hệ huyết thống gần mắc bệnh, nguy cơ mắc bệnh sẽ cao hơn.

Nguy cơ mắc ung thư vú tăng khoảng 2 lần khi có quan hệ huyết thống trong phạm vi 1 thế hệ với người mắc bệnh (mẹ, chị hoặc con gái), tăng lên khoảng 3 lần khi có quan hệ huyết thống trong phạm vi 2 thế hệ với người mắc bệnh.

Ở những phụ nữ có cha hoặc anh trai bị ung thư vú, không xác định được chính xác nguy cơ mắc ung thư vú nhưng nguy cơ mắc bệnh ở những người này cũng cao hơn. Nói chung, dưới 15% phụ nữ mắc ung thư vú có thành viên trong gia đình mắc bệnh. Điều này có nghĩa là phần lớn (hơn 85%) phụ nữ mắc ung thư vú không có tiền sử gia đình mắc bệnh.

Nhữngphụ nữ mắc ung thư một bên vú có nguy cơ mắc ung thư mới ở bên vú còn lại hoặc phần khác của bên vú đó cao hơn 3-4 lần. Điều này khác với tái phát ung thư ban đầu.

Nhìn chung, phụ nữ da trắng thường mắc ung thư vú nhiều hơn phụ nữ Mỹ gốc phi, nhưng phụ nữ Mỹ gốc phi thường tử vong do ung thư vú nhiều hơn. Tuy nhiên, ở phụ nữ dưới 45 tuổi, ung thư vú phổ biến ở người Mỹ gốc phi hơn. Người châu Á, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, thổ dân châu Mỹ có nguy cơ mắc ung thư vú và tử vong thấp hơn.

Tuyến vú được tạo thành từ mô mỡ, mô xơ và mô tuyến. Một số người có mô tuyến vú đặc (quan sát trên phim chụp x-quang), tức là có nhiều mô tuyến và mô xơ, ít mô mỡ hơn. Người có tuyến vú đặc trên phim chụp x-quang có nguy cơ ung thư vú cao hơn 1,2 đến 2 lần so với người có mật độ vú trung bình. Tuy nhiên, mô vú đặc cũng khiến phim chụp kém chính xác hơn.

Một số yếu tố có thể ảnh hưởng tới mật độ vú, như tuổi, giai đoạn mãn kinh, một số thuốc (bao gồm liệu pháp hormon thay thế ở giai đoạn mãn kinh), mang thai và gen.

Người mang u tuyến vú lành tình có thể có nguy cơ ung thư vú cao hơn. Một số ảnh hưởng tới nguy cơ ung thư vú hơn những tình trạng còn lại. Bác sĩ thường chia u vú lành tình thành 3 nhóm chính, phụ thuộc vào sự ảnh hưởng của nó tới nguy cơ ung thư vú.

Thương tổn không tăng sinh : Các loại u vú lành tính này không đi kèm với sự tăng sinh mô tuyến vú. Các tình trạng này không ảnh hưởng tới nguy cơ ung thư vú, nếu có thì ảnh hưởng trong phạm vi rất nhỏ. Nhóm này bao gồm:

Xơ hóa và/hoặc nang đơn thuần (thường được gọi là bệnh xơ nang)

Mastitis (viêm vú) không phải một thương tổn, tuy nhiên đây là tình trạng có thể xảy ra mà không làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú.

Thương tổn có tăng sản (không thuộc thể không điển hình) : Các tình trạng này có sự tăng sinh quá mức ở ống dẫn sữa hoặc tiểu thùy ở mô tuyến vú, làm tăng nhẹ nguy cơ mắc ung thư vú ở phụ nữ (1,5-2 lần). Nhóm này bao gồm:

Thương tổn tăng sản không điển hình : Trong các trường hợp này, có sự tăng sinh của tế bào ở ống dẫn sữa hoặc tiểu thùy của mô tuyến vú, trong đó một số tế bào không còn ở trạng thái bình thường. Các tổn thương này ảnh hưởng lớn tới nguy cơ ung thư vú, làm tăng nguy cơ lên 3,5-5 lần. Các loại tổn thương này bao gồm:

Phụ nữ có tiền sử gia đình ung thư vú, đồng thời bị mắc chứng tăng sản hoặc tăng sản không điển hình có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn nhiều.

Trong LCIS, các tế bào giống tế bào ung thư phát triển trong tiểu thùy tuyến tiết sữa, tuy nhiên chúng không phát triển xuyên qua thành tiểu thùy. LCIS (còn được gọi là lobular neoplasia) thường được xếp vào nhóm ung thư vú không xâm lấn cùng với ung thư biểu mô ống dẫn sữa (DCIS – ductal carcinoma in situ) tại chỗ, tuy nhiên khác với DCIS ở chỗ nó không trở thành ung thư xâm lấn khi không điều trị.

Phụ nữ mắc tình trạng này có nguy cơ mắc ung thư xâm lấn gấp 7-11 lần ở cả 2 vú. Do đó, người mắc LCIS nên thường xuyên kiểm tra x-quang vú và thăm khám bác sĩ.

Nguy cơ mắc ung thư vú tăng nhẹ ở những phụ nữ có chu kỳ kinh nguyệt bắt đầu sớm (trước 12 tuổi) và/hoặc mãn kinh muộn (sau 55 tuổi). Mức độ tăng nguy cơ mắc bệnh có thể phụ thuộc vào thời gian phơi nhiễm với hormon estrogen và progesteron.

Nguy cơ mắc ung thư vú tăng đáng kể ở phụ nữ có tiền sử xạ trị ở vùng ngực để điều trị các loại ung thư khác (như lymphoma) khi còn nhỏ hoặc còn trẻ. Nguy cơ này thay đổi theo tuổi của bệnh nhân vào thời điểm xạ trị. Nếu đồng thời sử dụng hóa trị, buồng trứng có thể dừng sản xuất hormon trong một thời gian, điều này làm giảm nguy cơ mắc ung thư vú. Nguy cơ mắc ung thư vú do xạ trị cao nhất khi việc điều trị được thực hiện vào tuổi thiếu niên, khi tuyến vú đang phát triển. Xạ trị sau tuổi 40 dường như không làm tăng nguy cơ ung thư vú.

Từ những năm 1940 đến 1960, một số phụ nữ sử dụng thuốc diethylstilbestrol (DES) trong thời kỳ mang thai do thuốc này được cho là giảm nguy cơ xảy thai. Nguy cơ mắc ung thư vú ở những người này tăng nhẹ so với bình thường. Con của những người này cũng có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn.

2. Lối sống và nguy cơ ung thư vú

Nguy cơ mắc ung thư vú tăng nhẹ ở những phụ nữ không có con hoặc có con đầu lòng sau tuổi 30. Mang thai nhiều lần và mang thai khi còn trẻ làm giảm nguy cơ ung thư vú. Tuy vậy, ảnh hưởng của việc mang thai đối với các loại ung thư vú khác nhau thì khác nhau. Với một số thể ung thư vú , việc mang thai làm tăng nguy cơ ung thư.

Depot-medro xyprogesteron acetat (DMPA; Depo-Provera) là một progesteron dạng tiêm được sử dụng 3 tháng 1 lần để phòng tránh thai. Một vài nghiên cứu cho thấy ảnh hưởng của DMPA trên nguy cơ ung thư vú. Phụ nữ trong thời gian sử dụng DMPA có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn, tuy nhiên nguy cơ mắc ung thư dường như không tăng lên khi dừng sử dụng thuốc trên 5 năm.

Liệu pháp sử dụng estrogen (thường kết hợp với progesteron) được sử dùng từ nhiều năm này để giảm triệu chứng mãn kinh và ngăn ngừa loãng xương. Các nghiên cứu trước đây đề xuất rằng nó có thể có các lợi ích khác cho sức khỏe, tuy nhiên các lợi ích này không được tìm thấy gần đây qua các nghiên cứu được thiết kế tốt hơn. Liệu pháp này được gọi bằng nhiều tên như liệu pháp hormon sau mãn kinh (post-menopausal hormone therapy), liệu pháp hormon thay thế (hormone replacement therapy) và liệu pháp hormon mãn kinh (menopausal hormon therapy).

Có 2 loại liệu pháp hormon chính. Với người còn tử cung, bác sĩ thường kê đơn cả estrogen và progesteron (được gọi là liệu pháp hormon kết hợp). Progesteron rất cần thiết do estrogen đơn độc làm tăng nguy cơ ung thư tử cung. Với người không còn tử cung (người đã từng phẫu thuật cắt tử cung), có thể kê estrogen đơn độc. Liệu pháp này thường được gọi là liệu pháp thay thế estrogen hoặc liệu pháp estrogen.

Các nghiên cứu cho thấy sử dụng liệu pháp hormon kết hợp sau khi mãn kinh làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú. Nó cũng tăng nguy cơ tử vong do ung thư vú.

Sử dụng estrogen đơn độc saumãn kinh không làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú.

Một số nghiên cứu cho kết quả gợi ý rằng việc cho con bú làm giảm nhẹ nguy cơ mắc ung thư vú, đặc biệt nếu cho bú liên tục từ 1,5 đến 2 năm. Tuy nhiên, điều này rất khó để nghiên cứu, đặc biệt ở các quốc gia như Mỹ, nơi mà việc cho bú trong thời gian dài không phải là phổ biến.

Ảnh hưởng này có thể do việc cho con bú làm giảm số lượng chu kỳ kinh nguyệt trong cuộc đời của người phụ nữ (tương tự với việc bắt đầu chu kỳ kinh nguyệt muộn hoặc sớm).

Sử dụng rượu có mối liên hệ rõ ràng với việc tăng nguy cơ mắc ung thư vú. Nguy cơ tăng lên tỷ lệ với lượng rượu tiêu thụ. So sánh với người không uống rượu, người uống 1 cốc rượu tiêu chuẩn một ngày có nguy cơ tặng rất ít. Người uống từ 2 đến 5 cốc mỗi ngày có nguy cơ cao hơn 1,5 lần so với người không uống rượu. Uống nhiều rượu cũng làm tăng nguy cơ mắc một số loại ung thư khác.

Tuy nhiên, quan hệ giữa cân nặng và nguy cơ ung thư vú rất phức tạp. Ví dụ, nguy cơ ung thư tăng lên ở những phụ nữ tăng cân ở tuổi trưởng thành nhưng có thể không tăng ở những người quá cân khi còn nhỏ. Tương tự, quá nhiều mỡ ở vùng eo có thể ảnh hưởng tới nguy cơ ung thư vú nhiều hơn cùng lượng mỡ đó ở vùng hông và đùi. Các nhà nghiên cứu tin rằng các tế bào mô mỡ ở các vùng khác nhau của cơ thể có sự khác biệt, điều này có thể giải thích cho sự ảnh hưởng phức tạp trên.

Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy hoạt động thể lực dưới dạng các bài tập thể dục làm giảm nguy cơ ung thư vú. Câu hỏi chính là cường độ cần thiết là bao nhiêu. Trong một nghiên cứu từ Cơ quan sáng kiến về sức khỏe phụ nữ, đi bộ nhanh khoảng 1,25 đến 2,5 giờ trên tuần làm giảm nguy cơ ung thư khoảng 18%/người. Đi bộ 10 giờ/tuần giảm nguy cơ hơn một chút nữa.

Nhiều nghiên cứu đã tìm hiểu mối liên hệ giữa chế độ ăn và nguy cơ ung thư vú, nhưng đến nay các kết quả vẫn còn nhiều mâu thuẫn. Một số nghiên cứu cho thấy chế độ ăn có thể đóng một vai trò trong sự phát triển ung thư, trong khi các nghiên cứu khác lại không thấy bằng chứng rằng chế độ ăn ảnh hưởng tới nguy cơ ung thư vú. Ví dụ, một nghiên cứu thấy rằng phụ nữ ăn nhiều thịt đỏ hơn có nguy cơ ung thư vú cao hơn.

Các nghiên cứu cũng chú ý tới nồng độ vitamin, và cũng thu được kết quả không thống nhất. Một số nghiên cứu hiện nay thấy rằng ở phụ nữ có nồng độ cao một số chất dinh dưỡng, nguy cơ ung thư vú tăng lên. Đến nay, không có nghiên cứu nào cho thấy rằng sử dụng vitamin làm giảm nguy cơ ung thư vú. Điều này không có nghĩa chế độ ăn lành mạnh không có lợi ích gì. Một chế độ ăn ít béo, ít các loại thịt đỏ và thịt qua chế biến, nhiều rau và hoa quả có thể có các lợi ích khác với sức khỏe.

Nhiều nghiên cứu đã và đang được thực hiện để đánh giá ảnh hưởng của môi trường lên nguy cơ ung thư vú.

Các hợp chất trong môi trường có tính chất tương tự estrogen được đặc biệt quan tâm, ví dụ, các hợp chất trong một số loại nhựa, một số mỹ phẩm và sản phẩm chăm sóc cá nhân, thuốc trừ sâu (như DDE), và các polychlorinat biphenyl (PCB). Các chất này theo lý thuyết có thể ảnh hưởng tới nguy cơ ung thư vú.

Vấn đề này là mối quan tâm lớn của cộng đồng, nhưng ở thời điểm này các nghiên cứu không cho thấy mối liên hệ rõ ràng giữa nguy cơ ung thư vú và sự phơi nhiễm với các chất này. Đáng tiếc rằng khó thực hiện các nghiên cứu về loại ảnh hưởng này ở người. Cần có thêm nghiên cứu để xác định ảnh hưởng tới sức khỏe của các chất này và các chất tương tự.

Một trọng tâm nghiên cứu hiện nay là việc hút thuốc thụ động có tăng nguy cơ ung thư vú hay không. Cả khói thuốc khi hút thuốc trực tiếp hay gián tiếp đều chứa các chất hóa học gây ung thư vú ở loài gặm nhấm ở nồng độ cao. Các chất hóa học trong khói thuốc tới mô tuyến vú và bài tiết ra sữa.

Bằng chứng nghiên cứu về mối quan hệ nữa hút thuốc thụ động và nguy cơ ung thư vú ở người còn gây tranh cãi, ít nhất một phần nào đó do mối quan hệ này còn chưa rõ ràng. Có thể giải thích cho điều này là khói thuốc lá có thể ảnh hưởng khác nhau với nguy cơ ung thư vú trên người hút thuốc và người chỉ phơi nhiễm với khói thuốc.

Một báo cáo từ Phòng bảo vệ môi trường California năm 2005 kết luận rằng bằng chứng cho thấy chắc chắn có mối quan hệ nhân quả giữa hút thuốc thụ động và nguy cơ ung thư vú ở người trẻ, đặc biệt phụ nữ trước mãn kinh. Báo cáo của Hiệp hội bác sĩ phẫu thuật năm 2004 lại kết luận rằng không có bằng chứng chắc chắn về mối liên hệ này. Trong bất kỳ trường hợp nào, nguy cơ này đủ để có lý do tránh việc hút thuốc thụ động.

Một số nghiên cứu cho thấy rằng phụ nữ làm việc về đêm (như y tá ca đêm) có thể có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn. Gần đây, nhiều nghiên cứu hơn được tiến hành về vấn đề này. Một số nhà nghiên cứu nghĩ rằng ảnh hưởng này có thể do sự thay đổi nồng độ melatonin, một hormon được bài tiết thay đổi dựa theo sự phơi nhiễm của cơ thể với ánh sáng, tuy nhiên các hormon khác cũng đang được nghiên cứu.

4. Các yếu tố còn tranh cãi hoặc chưa được chứng minh

Tin đồn trên internet và e-mail cho rằng các chất hóa học chống đổ mồ hôi dưới cánh tay được hấp thụ qua da, vào hệ bạch huyết, gây độc cho quá trình phát triển của tuyến vú và cuối cùng dẫn tới ung thư vú.

Dựa trên các bằng chứng hiện nay (bao gồm kiến thức về cơ chế hoạt động của cơ thể), có rất ít lý do để tin rằng các chất chống đổ mồ hồi làm tăng nguy cơ ung thư vú.

Tin đồn qua internet và e-mail và ít nhất một quyển sách cho rằng áo ngực gây ung thư vú do gây tắc nghẽn dòng bạch huyết. Không có cơ sở khoa học hay lâm sàng cho khẳng định này, và một nghiên cứu gần đây gồm 1500 phụ nữ cho thấy không có mối liên hệ giữa việc sử dụng áo ngực với nguy cơ ung thư vú.

Một số nghiên cứu cho dữ liệu chắc chắn rằng cả phá thai và xảy thai đều không có ảnh hưởng tới nguy cơ ung thư vú.

Một số nghiên cứu cho thấy rằng việc cấy ghép vú không làm tăng nguy cơ ung thư vú, mặc dù đặt túi silicon có thể gây mô sẹo trong vú. Việc cấy ghép có thể gây khó khăn để quan sát mô vú trong phim chụp x-quang chuẩn của vú, nhưng khi sử dụng hình ảnh thêm (additional x-ray pictures) , được gọi là hình ảnh thay thế cấy ghép (implant displacement view) có thể thăm khám mô vú một cách đầy đủ.

Cấy ghép vú có thể gây lymphoma thể hiếm gọi là lymphoma thểtế bào lớn thoái biến. Biến thể lymphoma này hiếm khi được thấy ở mô vú quanh nơi cấy ghép. Tới nay, có rất ít ca đã biết cho thấy nguy cơ mắc thể lymphoma này cao hơn ở những phụ nữ cấy ghép ngực.

Sinh viên Dược 5, Nguyễn Thị Minh Trang, ĐH Dược Hà Nội (dịch) DS. Võ Thị Hà (hiệu đính) Nguồn: Hội Ung Thư Mỹ http://www.cancer.org/cancer/breastcancer/detailedguide/breast-cancer-risk-factors

Những Yếu Tố Nguy Cơ Hàng Đầu Gây Ung Thư Dạ Dày

Ung thư đường tiêu hóa là một trong những bệnh ung thư có tỉ lệ mắc ngày càng cao, nhất là ung thư dạ dày. Căn bệnh này vô cùng nguy hiểm nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời, có thể nguy hiểm tính mạng. Vậy nguyên nhân nào gây ra ung thư dạ dày? Cùng nhà thuốc Thọ Xuân Đường tìm hiểu những yếu tố nguy cơ hàng đầu gây ung thư dạ dày.

Dạ dày là một bộ phận của đường tiêu hóa, có vai trò chứa đựng, nghiền nhỏ thức ăn và tiến hành chuyển hóa thức ăn thành dạng dễ hấp thu nhờ các enzym tiêu hóa có trong dịch vị. Chính vì vậy chế độ ăn uống ảnh hưởng rất lớn đối với dạ dày. Ung thư dạ dày thường gặp ở những người có thói quen ăn mặn, thích ăn các đồ dưa chua cà muối, các loại thức ăn chế biến sẵn, đồ ăn nhanh, đồ đóng hộp…

Một số thói quen ăn uống khác như ăn quá nhanh, bỏ bữa, ăn quá no… cũng là nguyên nhân gây tổn thương dạ dày và gây ung thư dạ dày lúc nào không hay.

Rượu bia và các chất kích thích có ảnh hưởng rất xấu đối với dạ dày, nó khiến dạ dày bị tổn thương từ đơn giản như viêm loét, lâu dần có thể ung thư hóa. Chính vì vậy người nào có thói quen dùng rượu bia, chất kích thích thường xuyên có nguy cơ mắc ung thư dạ dày cao hơn so với người bình thường.

Trong những năm gần đây, vi khuẩn Hp dạ dày không còn là khái niệm xa lạ đối với người dân Việt Nam. Tuy nhiên, việc phòng tránh nó cực kì khó khăn do thói quen sinh hoạt của người Việt Nam là ăn chung, uống chung nên rất dễ lây lan vi khuẩn Hp

Khi vi khuẩn HP tồn tại lâu trong dạ dày sẽ gây hại và lâu dần có thể gây ung thư dạ dày. Việc điều trị vi khuẩn HP không quá khó, nhưng việc phòng tránh tái nhiễm thì lại vô cùng khó khăn.

Khi gia đình có người thân mắc ung thư dạ dày thì tỉ lệ mắc bệnh ung thư dạ dày cũng tăng lên. Một phần do cùng gia đình sẽ chung chế độ ăn, sinh hoạt, một phần do ung thư dạ dày cũng có tính chất gia đình.

Chính vì vậy với những gia đình có người mắc ung thư dạ dày thì nên đi khám định kỳ và tầm soát để phát hiện ung thư dạ dày sớm.

Những người bị viêm loét dạ dày, polyp dạ dày, trào ngược dạ dày thực quản… nếu không được điều trị triệt để, bệnh kéo dài mãn tính sẽ có nguy cơ ung thư hóa rất cao. Không ít trường hợp viêm loét tái diễn, các vết loét ngày càng trầm trọng rồi tăng sản ác tính hóa ung thư.

Hút thuốc lá thuốc lào dù là chủ động hay thụ động thì đều có thể gây ung thư dạ dày. Nguyên nhân là do khói thuốc chứa rất nhiều chất độc hại gây phá hủy hệ tiêu hóa, đồng thời hút thuốc lá cũng kích thích tăng sản xuất cortisol gây viêm loét dạ dày, khiến niêm mạc của dạ dày trở nên suy yếu.

Còn rất nhiều yếu tố nguy cơ khác nhau có thể gây ung thư dạ dày mà không phải ai cũng biết. Theo thống kê, người nhóm máu O có nguy cơ mắc bệnh dạ dày cao hơn những nhóm máu khác.

Những người sống trong môi trường ô nhiễm, hít khói bụi thường xuyên cũng khiến nguy cơ mắc ung thư dạ dày tăng cao. Những người bị thiếu máu ác tính cũng rất dễ bị ung thư dạ dày.

Yếu Tố Nguy Cơ Ung Thư Dạ Dày

Ở Việt Nam Ung thư dạ dày đang là vấn đề y tế lớn trong nhân dân, đặc biệt là ở nam giới trên 40 tuổi. Ước tính hàng năm có khoảng 15000 – 20000 người bị Ung thư dạ dày, đứng thứ 2 sau ung thư phổi (ở nam); đứng thứ 3 sau ung thư vú và ung thư cổ tử cung (ở nữ)

Ung thư dạ dày là bệnh khá phổ biến ở Việt Nam và trên thế giới. Theo Hiệp hội Ung thư quốc tế (UICC), mỗi năm trên thế giới có trên bảy triệu ung thư mới được phát hiện, trong đó khoảng 30% là Ung thư dạ dày. Riêng đối với ung thư tiêu hoá thì Ung thư dạ dày là loại gặp nhiều nhất.

Ở Việt Nam đang là vấn đề y tế lớn trong nhân dân, đặc biệt là ở nam giới trên 40 tuổi. Ước tính hàng năm có khoảng 15000 – 20000 người bị Ung thư dạ dày vẫn được coi là bệnh lý ác tính tiến triển và tiên lượng nặng nề, tỉ lệ tử vong cao. Cho đến nay nguyên nhân Ung thư dạ dày vẫn chưa rõ ràng, người ta chỉ nói đến các yếu tố nguy cơ.

Bình thường 6% thanh niên và trung niên, 20 – 30% người già có tình trạng giảm acid chlorhydric sinh lý. Trong trường hợp Ung thư dạ dày thì acid chlorhydric có thể giảm hoặc không có. Trước một ổ loét dạ dày có dịch vị vô toan cần nghĩ đến tính chất ác tính hoặc diễn biến ác tính của ổ loét.

Trong cộng đồng có nguy cơ cao quá trình này thường bắt đầu từ năm thứ 20 đến 30 của tuổi đời. Qua thời gian viêm teo niêm mạc sẽ phát triển lan rộng trong dạ dày. Cho đến 60 – 70 tuổi kết quả là những tế bào tiết acid giảm đi dẫn tới sự thay đổi pH tạo điều kiện cho vi khuẩn cùng với các yếu tố khác dẫn đến Ung thư dạ dày.

3. Vai trò của Helicobacter Pylori trong ung thư dạ dày

Marshall và Warren lần đầu tiên phân lập trực khuẩn HP vào năm 1982, kể từ đó có rất nhiều nghiên cứu về vai trò của nó trong bệnh lý dạ dày, nhất là bệnh lý loét và bệnh lý ung thư dạ dày.Parsonet ( 1991 ) theo dõi những người mắc ung thư dạ dày và người bình thường thì thấy rằng tỷ lệ nhiễm HP ở bệnh nhân ung thư dạ dày là 84% còn ở nhóm chứng là 64%.Blaser ( 1995 ) thấy rằng, vai trò của HP trong ung thư dạ dày rõ ràng hơn ở những người mang HP có chuỗi Cag A. Tại Việt Nam, một nghiên cứu của Tạ Long và cs tiến hành ở 104 bệnh nhân ung thư dạ dày cho thấy có đến 77,1% bệnh nhân nhiễm HP theo chẩn đoán mô bệnh học và hầu hết trong số này đều mang chuỗi Cag A.

4. Một số yếu tố khác với ung thư dạ dày

Tính chất gia đình: ung thư dạ dày có tính chất gia đình chiếm khoảng 1 – 15% các trường hợp ung thư. Yatsuya (2001) nghiên cứu yếu tố gia đình của bệnh thì thấy rằng những gia đình có từ hai thành viên trở lên mắc ung thư dạ dày thì có nguy cơ mắc bệnh rất cao cho cả hai giới và nguy cơ tử vong do ung thư dạ dày cũng cao hơn so với các bệnh nhân ung thư dạ dày không có tiền sử gia đình.

Bệnh thiếu máu ác tính, bệnh ung thư đại trực tràng di truyền không polyp, dị sản ruột.. là những yếu tố nguy cơ của ung thư dạ dày.

Các yếu tố khác như điều kiện kinh tế khó khăn, tiếp xúc với phóng xạ, công nhân mỏ than, công nhân cao su… là những điều kiện thuận lợi cho ung thư dạ dày phát triển.

Như vậy cách tốt nhất để phòng tránh bệnh ung thư dạ dày là có một chế độ ăn hợp lý, nhiều rau xanh và hoa quả tươi, hạn chế thực phẩm muối hay hun khói, điều trị triệt để các bệnh lý dạ dày khác; với những người thuộc nhóm nguy cơ cao, có tính chất gia đình nên thường xuyên nội soi dạ dày 6tháng một lần để kiểm tra, kịp thời phát hiện sớm tổn thương, và cần có ý thức hơn trong việc bảo vệ môi trường sống để chúng ta có cuộc sống thật sự khoẻ mạnh.

Các Yếu Tố Nguy Cơ Gây Bệnh Ung Thư

Một yếu tố nguy cơ có thể là nguyên nhân chính gây ra rất nhiều bệnh như là ung thư. Các loại yếu tố nguy cơ khác nhau gây nên các loại ung thư khác nhau. Ngày nay, các nghiên cứu đã chỉ ra một số yếu tố nhất định sẽ làm tăng nguy cơ mắc ung thư. Do đó, Hạn chế tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ tránh được có thể làm giảm nguy cơ phát triển một số loại ung thư nhất định.

1. THUỐC LÁ

Trên toàn thế giới, việc sử dụng thuốc lá gây ra cái chết của khoảng 6 triệu người mỗi năm từ ung thư và các bệnh khác. Khói thuốc lá có chứa hơn 7000 hóa chất, trong đó có ít nhất 250 chất có hại và hơn 50 chất gây ra ung thư.

Hút thuốc lá gây ra nhiều loại ung thư, bao gồm ung thư phổi, thực quản, thanh quản, miệng, cổ họng, thận, bàng quang, tụy, dạ dày và cổ tử cung. Hút thuốc thụ động  gây gây ung thư phế quản. Thuốc lá không khói (kẹo nhai…) gây ung thư miệng, thực quản và tụy.  

 

2. THIẾU HOẠT ĐỘNG, THỪA CÂN BÉO PHÌ VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG DINH DƯỠNG

Chế độ ăn uống hợp lý rất quan trọng trong việc kiểm soát ung thư. Thừa cân và béo phì là nguyên nhân gây ra nhiều loại ung thư khác nhau như thực quản, đại tràng, vú, nội mạc tử cung và thận. Do đó, việc ăm nhiều trái cây và rau quả sạch có tác dụng hỗ trợ, giúp chống lại nhiều loại ung thư. Hoạt động thể chất thường xuyên, duy trì cơ thể khỏe mạnh cũng như có một chế độ ăn uống lành mạnh giúp làm giảm đáng kể nguy cơ mắc một số bệnh ung thư.

3. SỬ DỤNG RƯỢU

Sử dụng rượu có thể gây ra nhiều loại bệnh ung thư khác nhau như ung thư khoang miệng, vòm họng, thanh quản, thực quản, gan, kết trực tràng và vú. Nguy cơ ung thư tăng lên nếu sử dụng rượu quá nhiều. Đối với một số loại ung thư, sử dụng rượu có nồng độ cồn cao kết hợp với thuốc làm tăng nguy cơ mắc. Trong năm 2010, các trường hợp ung thư do rượu bia gây ra 337.400 cái chết trên toàn thế giới.

4. NHIỄM TRÙNG

        Trong năm 2012, khoảng 15% các loại ung thư là do các tác nhân gây bệnh như HP, HPV, viêm gan B và C và EBV. Hai phần ba số ca tử vong do nhiễm trùng (1,4 triệu trường hợp) xảy ra ở những nước kém phát triển. Vắc xin cho viêm gan B và một số loại HPV và có thể làm giảm nguy cơ ung thư gan và ung thư cổ tử cung.

5. Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG 

Ô nhiễm không khí, nước và đất với các chất gây ung thư gây ra ung thư ở các mức độ khác nhau tùy thuộc vào vị trí. Ước tính ô nhiễm không khí gây ra 3,2 triệu trường hợp tử vong sớm trên toàn thế giới trong năm 2012, bao gồm hơn 200.000 ca tử vong do ung thư phổi. Ô nhiễm không khí do đốt than tăng gấp đôi nguy cơ ung thư phổi, đặc biệt là trong số phụ nữ không hít khói.

6. CÁC CHẤT GÂY UNG THƯ NGHỀ NGHIỆP

7. CÁC TIA BỨC XẠ

Tiếp xúc với các loại bức xạ ion hóa, từ cả nguồn tự nhiên lẫn nhân tạo, sẽ làm tăng nguy cơ mắc các loại ung thư khác nhau bao gồm ung thư bạch cầu và ung thư biểu mô. Tia cực tím (UV), và đặc biệt là bức xạ mặt trời, gây ra tất cả các loại ung thư da, như ung tế bào đáy (BCC), ung thư biểu mô tế bào vảy (SCC) và ung thư hắc tố da.

Bức xạ được sử dụng trong y học có thể giúp cứu sống người bệnh. Tuy nhiên, việc sử dụng không phù hợp có thể gây hại không chủ ý cho bệnh nhân. Do đó, các xét nghiệm bức xạ và các thủ tục nên được quy định phù hợp và thực hiện đúng để giảm liều bức xạ không cần thiết đến cho bệnh nhân.

Cập nhật thông tin chi tiết về Các Yếu Tố Nguy Cơ Gây Ra Ung Thư Dạ Dày trên website Sept.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!