Bạn đang xem bài viết Bệnh Viện Da Liễu Trung Ương, Lịch Khám Bệnh Viện Da Liễu Trung Ương, Soi Da Ở Bệnh Viện Da Liễu Trung Ương, Khoa Thẩm Mỹ Bệnh Viên Da Liễu Trung Ương được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Sept.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
15 Phương Mai – Đống Đa – Hà Nội benhviendalieutrunguong@dalieu.vn
LỊCH KHÁM BỆNH
Để thuận cho việc khám bệnh tại Bệnh Viện Da Liễu Trung ương – 15A Phương Mai – Đống Đa – HN, Quý vị có thể theo dõi lịch khám bệnh của các bác sỹ, Giáo sư, Phó giáo sư tại Bệnh viện như sau:
– Khám Giáo sư/Phó Giáo sư:Tất cả các ngày trong tuần: sáng từ 6h15-12h00, chiều từ 13h30-16h30
Thứ bảy, chủ nhật: sáng từ 7h00-12h00, chiều từ 14h -17h30
– Khám trong giờ (bao gồm cả khám sớm, khám theo yêu cầu, khám thường và khám bảo hiểm):Tất cả các ngày trong tuần: sáng từ 6h15-12h30, chiều từ 13h30-16h30
Từ thứ hai đến thứ sáu hàng tuần: từ 16h30-18h30
Thứ bảy, chủ nhật: sáng từ 7h30-12h00, chiều từ 14h -17h30* Đặc biệt Bệnh viện xin thông báo: Khoa Nghiên cứu và ứng dụng Tế bào gốc – Bệnh viện Da liễu Trung ương triển khai các dịch vụ ngoài giờ vào cả sáng thứ 7 và sáng chủ nhật như sau: – Khám và tư vấn chăm sóc da bệnh lý và thẩm mỹ. – Chụp mặt và phân tích da. – Tái tạo da bằng hóa chất – lột mặt. – Săn sóc da trị liệu và thẩm mỹ sử dụng Acthyderm kết hợp với các sẳn phẩm ứng dụng lăn kim và Intracel – công nghệ RF vi điểm.
Tư vấn, đăng ký khám bệnh qua tổng đài xin gọi số 19006951
DÀNH CHO BỆNH NHÂN Hướng dẫn khám bênh Lịch khám chữa bệnh
CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ – BỆNH VIỆN DA LIỄU TRUNG ƯƠNG
Địa chỉ: 15A – Phương Mai – Quận Đống Đa – Hà Nội
Emaill: benhviendalieutrunguong@dalieu.vn Giấy phép số 79/GP-TTĐT do Cục PTTH và TTĐT – Bộ TT&TT cấp ngày 30/6/2023.
Trưởng ban biên tập: chúng tôi Nguyễn Văn Thường – Giám đốc Bệnh viện
Bản quyền: Bệnh viện Da liễu Trung ương
Ghi rõ nguồn: Bệnh viện Da liễu Trung ương hoặc http//:dalieu.vn khi sử dụng lại thông tin từ website này
QUY TRÌNHNhận phiếu đăng ký khám bênh
Đóng tiền khám và nhận biên lai
Nộp phiếu đăng ký nhận số thứ tự
CHI PHÍBảng chi phí khám chữa bệnh tại Bệnh Viện Da Liễu Trung Ương do Bộ Y Tế phê duyệt
DÀNH CHO BỆNH NHÂN
CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ – BỆNH VIỆN DA LIỄU TRUNG ƯƠNG
Địa chỉ: 15A – Phương Mai – Quận Đống Đa – Hà Nội
Điện thoại: 024.32222944 Fax: 024.38522665
Emaill: benhviendalieutrunguong@dalieu.vn Giấy phép số 79/GP-TTĐT do Cục PTTH và TTĐT – Bộ TT&TT cấp ngày 30/6/2023Trưởng ban biên tập: chúng tôi Nguyễn Văn Thường – Giám đốc Bệnh viện Bản quyền: Bệnh viện Da liễu Trung ương Ghi rõ nguồn: Bệnh viện Da liễu Trung ương hoặc http//:dalieu.vn khi sử dụng lại thông tin từ website này
Bệnh Viện Da Liễu Trung Ương
1. Đại cương Paget là bệnh lí ung thư của biểu mô tuyến apocrin lớp thượng bì. Bệnh được mô tả lần đầu tiên bởi James Paget vào năm 1874. Bệnh được chia làm 2 thể chính là Paget tại vú và Paget ngoài vú. Mặc dù chia làm 2 thể, tuy nhiên biểu hiện lâm sàng của 2 thể giống nhau, chỉ khác nhau về vị trí. Bệnh Paget thường dễ chẩn đoán nhầm với các bệnh lí khác. Điều trị chủ yếu bằng phẫu thuật.
Paget là bệnh lí ung thư của biểu mô tuyến apocrin lớp thượng bì. Bệnh được mô tả lần đầu tiên bởi James Paget vào năm 1874. Bệnh được chia làm 2 thể chính là Paget tại vú và Paget ngoài vú. Mặc dù chia làm 2 thể, tuy nhiên biểu hiện lâm sàng của 2 thể giống nhau, chỉ khác nhau về vị trí. Bệnh Paget thường dễ chẩn đoán nhầm với các bệnh lí khác. Điều trị chủ yếu bằng phẫu thuật.
2. Paget vú Bệnh thường gặp ở phụ nữ trên 50 tuổi. Vị trí hay gặp thường một bên vú, tổn thương có thể xuất hiện lan rộng cả quầng vú xung quanh. Bệnh đặc trưng là các dát đỏ dạng eczema, có vảy da, ranh giới rõ với xung quanh, khi vảy da được loại bỏ để lại một nền ẩm ướt, rỉ dịch. Kèm theo đó có thể sờ thấy hạch và khối u bên đối diện. Bệnh thường kết hợp với ung thư tuyến vú (chiếm 98% trong các trường hợp).
Hình 1-2: Bệnh Paget vú, tổn thương dát đỏ, có vảy da ranh giới rõ so với xung quanh vị trí vùng vú (nguồn ảnh: Dermnetnz)
3. Paget ngoài vú Trong khi đó Paget ngoài vú còn chia làm 2 thể: Paget ngoài vú tiên phát và Paget ngoài vú thứ phát. – Bệnh hay gặp trong khoảng 60-80 tuổi, nữ giới thường gặp hơn là nam giới. Tổn thương xuất hiện vùng phân bố của tuyến apocrin như âm hộ nữ giới (76%), dương vật, bìu, quanh hậu môn, nách. Tổn thương là các dát đỏ nền ẩm ướt ri dịch.
Hình 3: Paget ngoài vú ở bệnh nhân nữ 62 tuổi, tổn thương là dát đỏ ranh giới tương đối rõ, nền ẩm ướt rỉ dịch (nguồn: BSNT Nguyễn Thị Mai, Bệnh viện Da liễu Trung ương)
4. Cận lâm sàng: 4.1. Mô bệnh học Đặc trưng là các tế bào Paget: tế bào dạng tuyến không điển hình, phân bố ngẫu nhiên trong thượng bì, nhân rộng chiếm ưu thế, hạt nhân đậm, bào tương nhạt màu, mất cầu nối giữa các tế bào. Phân bố vùng thượng bì, nang tóc, ống tuyến mồ hôi, có hiện tượng tăng gai, dày sừng và á sừng, nhuộm PAS(+). 4.2. Hóa mô miễn dịch
(MPD: Paget tại vú, EMPD: Paget ngoài vú)
5. Chẩn đoán phân biệt – Cần chẩn đoán bệnh Paget tại vú với: chàm núm vú, vảy nến, nấm da, bệnh Bowen, u hắc tố…. – Phân biệt Paget ngoài vú với: nấm da, nấm vùng đùi, vảy nến, Bowen, hồng sản Queyrat, viêm da dầu, lichen xơ teo, ….6. Chẩn đoán xác định Dựa vào – Lâm sàng: vị trí, đặc điểm tổn thương đặc trưng – Tổn thương kéo dài, không đáp ứng với điều trị thông thường – Mô bệnh học – Nhuộm hóa mô miễn dịch với maker đặc hiệu7. Tiên lượng – Paget vú: tỷ lệ sống trên 10 năm. Trường hợp có di căn hạch là 20-45%, và khi có khối u vú 35-51% bệnh nhân sống sau 5 năm. – Paget ngoài vú: tiên lượng sống phụ thuộc vào nhiều yếu tố bao gồm tổn thương khu trú thượng bì, độ sâu xâm lấn, di căn hạch vùng, CEA, EMPD vùng âm vật, khối u nguyên phát…8. Điều trị và theo dõi sau điều trị – Điều trị ưu tiên là cắt rộng loại bỏ khối u, có hoặc không kèm theo vét hạch, hoặc phẫu thuật Mohs – Các sự lựa chọn khác: liệu pháp tia xạ, hóa chất, imiquimod…. – Trong 2 năm đầu, bệnh nhân nên được theo dõi mỗi 3 tháng, tiếp đến là hàng năm.
Bài và ảnh: BSNT.Nguyễn Thị Mai, Khoa Chẩn đoán hình ảnh Bệnh viện da liễu TWĐăng tin: Phòng CNTT&GDYT
Lịch Khám Bệnh Tại Bệnh Viện Da Liễu Trung Ương
Thứ Sáu, 15-12-2023
1 – Lịch khám bệnh của Giáo sư/Phó Giáo sư Từ thứ 2 đến thứ 6 (hàng tuần): Thứ 7, Chủ nhật (hàng tuần): 2 – Lịch khám trong giờ hành chính
**Bao gồm khám theo yêu cầu, khám thường và khám bảo hiểm.
Từ thứ 2 đến thứ 6(hàng tuần): 3 – Khám ngoài giờ hành chính
Từ thứ 2 đến thứ 6 (hàng tuần): 16h30 – 18h30
Thứ 7, Chủ nhật:
** Khoa Nghiên cứu và ứng dụng Tế bào gốc của Bệnh viện Da Liễu Trung ương có triển khai các dịch vụ ngoài giờ vào cả sáng thứ 7, sáng chủ nhật:
Khám, tư vấn, chăm sóc da bệnh lý và thẩm mỹ ngoài giờ.
Chụp mặt và phân tích da.
Tái tạo da bằng hóa chất – lột mặt.
Săn sóc da trị liệu và thẩm mỹ sử dụng Acthyderm kết hợp với các sản phẩm ứng dụng lăn kim và Intracel – công nghệ RF vi điểm.
Quy trình khám bệnh tại Bệnh viện Da Liễu Trung ươngĐầu tiên, bệnh nhân cần đăng ký thông tin cá nhân tại bàn hướng dẫn để bắt đầu quá trình khám chữa bệnh. Sau đó, nhân viên của bệnh viện sẽ trực tiếp hướng dẫn người bệnh cách đăng ký khám tại tại các bàn tiếp đón bệnh nhân. Các khu vực khám tại Bệnh viện Da liễu Trung ương được sắp xếp và phân chia khoa học nhằm tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho bệnh nhân. Các khu vực này được bố trí như sau:
1 – Khu vực khám bệnh theo yêu cầu yêu cầu
Khu vực khám bệnh theo yêu cầu bao gồm các phòng từ 1 đến 9.
Bệnh nhân tiến hành đăng ký khám tại khu vực khám bệnh theo yêu cầu và được phân vào các phòng khám phù hợp.
Đa phần các kết quả xét nghiệm sẽ được chuyển đến cho bệnh nhân trong ngày.
2 – Khu khám bệnh tự nguyện
Bệnh nhân đăng ký khám bệnh tại các bàn tiếp đón từ 1 đến 7. Sau đó, nhân viên bệnh viện sẽ phân bệnh nhân vào các phòng khám khác nhau. Trong đó:
Bàn tiếp đón bệnh nhân đến khám: Bàn 1, 3 và 4
Bàn nộp tiền khám và xét nghiệm: Bàn 2 và bàn 6
Bàn đăng ký khám bảo hiểm y tế: Bàn 5
Bàn thanh toán bệnh nhân ra vào viện: Bàn 7
Các phòng khám bệnh khu vực tự nguyện bao gồm: Phòng 5, 10, 11, 12, 13, 14 và 15
BẠN CÓ THỂ THAM KHẢO THÊM:
Like và Share nội dung này!
Giới Thiệu Viện Da Liễu Trung Ương
Từ khoa “Bệnh lý Nội thương – Da liễu” được hình thành vào tháng hai năm 1954 và Trường Đại học Y Dược trên núi rừng Việt Bắc, Giáo sư Đặng Vũ Hỷ cùng với anh chị em tiếp quản khu ngoài da liễu của Bệnh viện Bạch Mai tháng 10/1954.
A. Lịch sử hình thành
– Từ khoa “Bệnh lý Nội thương – Da liễu” được hình thành vào tháng hai năm 1954 và Trường Đại học Y Dược trên núi rừng Việt Bắc (Chiêm Hoá, Tuyên Quang), Giáo sư Đặng Vũ Hỷ cùng với 45 cán bộ – công nhân viên kháng chiến chống thực dân xâm lược Pháp về tiếp quản khu ngoài da của Bệnh viện Bạch Mai tháng 10/1954.
Lãnh đạo đơn vị ở thời kỳ đầu.
– Từ tháng 10 năm 1954 đến năm 1972: Giáo sư Ŀặng Vũ Hỷ – Chủ nhiệm Khoa Da liễu Bệnh viện Bạch Mai kiêm chủ nhiệm Bộ môn Da liễu trường Đại học Y Hà Nội. Giáo sư Lê Kinh Duệ – Phó Chủ nhiệm Bộ môn.
– Từ 1964, Giáo sư Lê Tử Vân được cử làm Phó Chủ nhiệm Khoa Da liễu Bệnh viện Bạch Mai.
– Từ năm 1972, sau khi Giáo sư Đặng Vũ Hỷ qua đời, cho tới năm 1981: Giáo sư Lê Kinh Duệ được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm khoa Da liễu Bệnh viện Bạch Mai kiêm Chủ nhiệm Bộ môn Da liễu trường Đại học Y Hà Nội. Giáo sư Lê Tử Vân giữ chức Phó Chủ nhiệm khoa, Phó Chủ nhiệm Bộ môn. Giáo sư Nguyễn Thị Ŀào – Làm Phó Chủ nhiệm Bộ môn.
– Ngày 28 tháng giêng năm 1982 Bộ Y tế ra Quyết định số 70/BYT-QĿ thành lập Viện Da liễu Việt Nam trực thuộc Bộ Y tế nằm trong Bệnh viện Bạch Mai do Giáo sư Lê Kinh Duệ làm Viện trưởng.
– Ngày 30/3/2006 Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 486/QĐ-TTg về việc thành lập Viện Da liễu Quốc gia trực thuộc Bộ Y tế do Phó giáo sư, tiến sĩ Phạm Văn Hiển làm Viện Trưởng.
B. CHỨC NĂNG NHIỆM VỤ:
1. Viện Da liễu Quốc gia là Viện chuyên khoa đầu ngành về Phong – Da liễu có chức năng
2. Viện Da liễu Quốc gia có các nhiệm vụ:
a) Nghiên cứu mô hình bệnh tật, các phương pháp chẩn đoán, điều trị, dự phòng và phục hồi chức năng các bệnh thuộc chuyên ngành bệnh Phong và Da liễu:
b) Đào tạo cán bộ
c) Công tác khám, chữa bệnh và phục hồi chức năng
d) Chỉ đạo tuyến
e) Hợp tác quốc tế
C. LÃNH ĐẠO VIỆN HIỆN NAY:
– PGS. TS. Phạm Văn Hiển – Viện trưởng Viện Da liễu kiêm Chủ nhiệm Bộ môn Da liễu trường Đại học Y Hà Nội, Phó Chủ tịch Hội Da liễu Việt Nam.
– PGS. TS. Trần Hậu Khang – Phó Viện trưởng Viện Da liễu kiêm Phó Chủ nhiệm Bộ môn Da liễu trường Đại học Y Hà Nội.
– TS. Nguyễn Sỹ Hoá – Phó Viện trưởng Viện Da liễu.
D. HỆ THỐNG TỔ CHỨC
Hệ thống tổ chức của Viện Da liễu hiện nay gồm khối các khoa phòng chức năng, các khoa lâm sàng và các khoa cận lâm sàng
1. Các phòng chức năng
a. Phòng tổ chức hành chính
b. Phòng đào tạo và nghiên cứu khoa học
c. Phòng hợp tác quốc tế
d. Phòng chỉ đạo ngành
e. Phòng tài chính kế toán
f. Phòng kế hoạch tổng hợp – quản trị – vật tư và thiết bị y tế
g. Phòng y tế cơ quan
2. Các khoa lâm sàng
a. Khoa khám bệnh
b. Khoa điều trị bệnh phong và laser – phẫu thuật
i. Bệnh nhân phong nội trú
ii. Vật lý trị liệu, UVA – UVB
iii. Laser
iv. Phẫu thuật
v. Chăm sóc da thẩm mỹ
c. Khoa điều trị bệnh da phụ nữ và trẻ em
d. Khoa điều trị bệnh da nam giới
3. Các khoa cận lâm sàng
a. Khoa dược
b. Khoa xét nghiệm
i. Phòng vi sinh – nấm
ii. Phòng giải phẫu bệnh
iii. Phòng huyết thanh
iv. Phòng sinh hóa – huyết học
v. Phòng miễn dịch
Ngoài ra, Viện còn có:
– Đảng bộ
– Công đoàn
– Chi đoàn
– Bộ môn Da liễu trường Đại học Y Hà Nội
– Hội đồng thi đua khen thưởng
– Hội đồng bảo hộ lao động
– Hội động khoa học kỹ thuật
– Hội đồng lương
– Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học
4. Cán bộ
– Tổng số cán bộ Viện Da liễu gồm 160, trong đó có 15 cán bộ thuộc biên chế Bộ môn Da liễu Trường đại học Y Hà nội
– Phó giáo sư, tiến sĩ: 3
– Tiến sĩ: 6
– Thạc sĩ: 16
– Bác sĩ CK II: 6
– Bác sĩ CK I: 8
– Bác sĩ: 8
E. THÀNH QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Từ khi thành lập Khoa Da liễu Bệnh viện Bạch Mai cho tới nay là Viện Da liễu Quốc gia, Viện đã thực hiện và chỉ đạo được một số công việc nổi bật sau:
1. Xây dựng màng lưới chuyên khoa:
Cho tới nay 100% các tỉnh/thành (64/64) trong cả nước đều đã có cơ sở chuyên khoa Da liễu. Tuỳ theo điều kiện cụ thể về tổ chức biên chế cán bộ, theo địa dư và theo phương pháp quản lý của từng địa phương mà các cơ sở Da liễu ở từng địa phương mang những tên gọi khác nhau (Bệnh viện Da liễu; Bệnh viện Phong và Da liễu; Trung tâm Da liễu; Trạm Da liễu; tổ Da liễu nằm trong Trung tâm phòng chống bệnh xã hội, Trung tâm Y tế dự phòng, Trạm Da liễu), nhưng chức năng, nhiệm vụ công tác và mục tiêu hoạt động chuyên khoa đều thống nhất.
2. Đào tạo và nghiên cứu khoa học:
25 năm qua Viện đã đào tạo được nhiều đối tượng đại học, sau đại học, cụ thể :
– Bác sĩ chuyên khoa : 418
– Bác sĩ chuyên khoa I : 207
– Bác sĩ chuyên khoa II: 28
– Bác sĩ nội trú: 13
– Thạc sĩ: 22
– Nghiên cứu sinh: 17
– Sinh viên luân khoa của trường Y: Trung bình mỗi năm khoảng 200 đến 400
– Đào tạo chuyên khoa cho các đơn vị bạn như trường đại học y tế cộng cộng, đại học răng hàm mặt…
– Mở hàng trăm lớp đào tạo lại, nâng cao trình độ tại các tỉnh, thành về bệnh Phong, bệnh da và bệnh LTQĐTD.
– Tham gia giảng dạy cho các sinh viên nước ngoài đến học tập, nghiên cứu.
– Nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu các đề tài về phòng chống các bệnh da liễu, bệnh phong, bệnh LTQĐTD và phục vụ cho công tác đào tạo, xây dựng màng lưới chuyên khoa, công tác nghiên cứu khoa học được ngành Da liễu khởi xướng ngay từ khi Giáo sư Đặng Vũ Hỷ về tiếp quản khoa Da liễu Bệnh viện Bạch Mai và cho tới nay vẫn tiếp tục, ngày càng phát triển.
– Tổng số hơn 1.300 công trình nghiên cứu và báo cáo khoa học, nổi bật gồm:
• Phong: 312
• LTQĐTD: 165
• Các bệnh da phổ biến: 290
3. Hợp tác quốc tế:
Từ những năm đầu tiên, khi mới về tiếp quản khoa Da liễu Bệnh viện Bạch Mai, Khoa đã nhận được sự giúp đỡ và hợp tác nghiên cứu khoa học của các nước xã hội chủ nghĩa :
– Năm 1957-1958 : Đoàn chuyên gia Liên Xô (cũ) sang giúp ta phát hiện các bệnh hoa liễu ở Tây Bắc, Phát Diệm Ninh Bình và một vài thành phố và thị xã trên miền Bắc. Ŀồng thời chi viện cho chúng ta nhiều thuốc men và hoá chất phục vụ công tác này.
– Từ năm 1959-1962 :
+ Bác sĩ Vulcan, chuyên gia Rumani sang hợp tác cùng Khoa Da liễu Bệnh viện Bạch Mai khám phát hiện và điều trị bệnh phong taị huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá, huyện Vĩnh Tương tỉnh Vĩnh Phúc.
+ Các chuyên gia : Kudela (Tiệp Khắc), Stoyanov Nitov (Bungari), Giáo sư Volgan Hofs (Cộng hoà Dân chủ Ŀức) sang hợp tác nghiên cứu khoa học và giúp chúng ta chống các bệnh Da liễu.
– Sau này, khi đất nước còn bị cấm vận, từ những năm 1977-1978, ngành Da liễu đã tạo được những mối quan hệ quốc tế ngày càng phát triển với nhiều tổ chức phi chính phủ (NGO) ở các nước như : Hà Lan, Nhật Bản, Bỉ, Anh, ĐĿức, Pháp, ý, Thuỵ Sĩ…, Tổ chức Y tế Thế giới (WHOs)… Mỗi tổ chức giúp chúng ta một vùng, gồm từ 1-2 ; 4-5 ; rồi 10 đến 12 tỉnh/thành phố, với đề án hợp tác, viện trợ thuốc men, phương tiện giao thông (ô tô, xe máy, xe đạp…), tài liệu sách vở, kinh phí đào tạo cán bộ, giáo dục y tế, phục hồi chức năng, dạy nghề… và gửi cán bộ đi học tập, tham gia, dự hội nghị quốc tế và khu vực, góp phần nâng cao trình độ và uy tín của Ngành Da liễu, Viện Da liễu trên trường quốc tế.
– Từ 1992 đến nay: 100% các tỉnh, thành có dự án hợp tác về công tác phòng chống Phong với các tổ chức quốc tế như: WHO, các Hội chống Phong các nước Bỉ, Hà Lan, Anh, Pháp, Nhật, Nauy… Hàng năm, có hàng chục đoàn khách quốc tế và chuyên gia vào làm việc với Viện Da liễu. Viện đã hoàn thành kịp thời thủ tục phê duyệt dự án, chuyển kinh phí cho địa phương hoạt động và quyết toán với phía bạn, duy trì được các nguồn viện trợ hàng năm của các tổ chức gồm nhiều tỷ đồng. Nhiều đề án đặc biệt đã được thực hiện như với WHO là đề án Giám sát sau loại trừ bệnh Phong, tổ chức các lớp may, sửa chữa xe máy, học lái xe, nghề mộc… cho bệnh nhân phong và con em của họ.
4. Thành tựu bước đầu trong công cuộc chống bệnh phong :
– Từ chỗ những năm trước đây ta chỉ có điều kiện điều trị bệnh phong bằng DDS đơn thuần (đơn hoá trị liệu). Từ sau ngày thống nhất đất nước, Ngành Da liễu nắm bắt được kịp thời những thông tin mới trên Thế giới về kỹ thuật, chẩn đoán, phân loại và điều trị bệnh phong từ năm 1983 đến nay. Ngành Da liễu đã chuyển sang dùng hoá trị liệu phối hợp (đa hoá trị liệu), giúp hiệu quả trị bệnh tăng nhanh gấp bội, nhanh chóng cắt được nguồn lây, hạn chế tàn tật trên bệnh nhân phong và đề phòng vi khuẩn phong kháng thuốc. Tỷ lệ bệnh nhân bị tái phát rất thấp. Chỉ mới tính đến năm 1994, sau 10 năm thực hiện Đa hoá trị liệu (ĐHTL-MDT), tổng số bệnh nhân đã hoàn thành đa hoá trị liệu và đã được khỏi bệnh là 80.000 người / trên cả nước.
– Trong công trình nghiên cứu dài hạn nhằm rút ngắn thời gian chữa khỏi bệnh phong hơn nữa bằng Ofloxacin của Tổ chức Y tế Thế giới, Việt Nam đã được chọn là một trong 7 Trung tâm lớn của toàn thế giới tham gia đề tài này.
– Năm 1994, Thủ đô Hà Nội đã được chọn để đăng cai việc tổ chức một Hội nghị Quốc tế quan trọng bàn về việc khống chế và tiến tới thanh toán bệnh phong trên toàn cầu. Đã có hơn 150 đại biểu, các nhà khoa học về bệnh phong, 47 Bộ trưởng Bộ Y tế các nước sang Việt Nam cùng tham gia. Hội nghị đã ra được bản “Tuyên ngôn Hà Nội” khuyến cáo mọi quốc gia phấn đấu sớm loại trừ bệnh phong ra khỏii Y tế cộng đồng, đạt được như lời kêu gọi của Đại hội Y tế Thế giới tổ chức tại Genève năm 1991 là Hãy loại trừ bệnh phong ra khỏi nền y tế cộng đồng trên toàn thế giới vào năm 2000.
– Từ năm 1995 : Chương trình phòng chống bệnh phong của Ngành Da liễu đã được Nhà nước nâng lên thành chương trình quốc gia.
– Từ năm 1995-2006 :
+ Thực hiện chương trình y tế quốc gia về phòng chống bệnh Phong. Đã thực hiện thành công “Loại trừ bệnh Phong theo tiêu chuẩn WHO” vào năm 2000.
+ Tính đến hết năm 2006, có 37 tỉnh, thành trong cả nước đạt được loại trừ bệnh phong theo 4 tiêu chuẩn của Việt Nam do Bộ Y tế ban hành năm 2002. (Tiêu chuẩn này cao hơn nhiều so với tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới).
– Hàng năm giám sát hoạt động chống Phong của các tỉnh trong toàn quốc.
– Chỉ đạo và thực hiện chương trình phòng chống tàn tật cho bệnh nhân Phong.
– Thực hiện dự án hợp tác giữa phòng Chỉ đạo ngành với các Hội chống Phong Hà Lan (NLR), Bỉ, Đức.
– Mở nhiều lớp tập huấn về chăm sóc bàn tay, bàn chân mất cảm giác, phòng tránh thương tích ở mắt bệnh nhân Phong cho cán bộ chuyên môn của các khu điều trị Phong và cán bộ làm công tác chống Phong.
– Tập huấn nâng cao kiến thức về bệnh Phong cho cán bộ chuyên khoa tuyến huyện tại các tỉnh trong cả nước.
– Tập huấn cho cán bộ chống phong tuyến tỉnh về chiến lược lồng ghép trong hoạt động chống phong giai đoạn mới.
– Xây dựng các tài liệu và biểu mẫu theo dõi tàn tật cho bệnh nhân Phong, mẫu Báo cáo tình hình hoạt động da liễu hàng năm, bệnh án bệnh nhân Phong, sửa mẫu M2, M3 cho phù hợp với tình hình thực tế.
– Hoàn thiện văn bản dưới luật hướng dẫn tổ chức công nhận loại trừ bệnh Phong theo 4 tiêu chuẩn của Việt Nam.
– Phân phối thuốc chống Phong, thuốc bôi ngoài da phục vụ công tác khám phát hiện bệnh Phong cho các tỉnh/thành trong cả nước.
– Giáo dục y tế toàn dân và tập huấn cho cán bộ y tế những kiến thức cơ bản về bệnh Phong ở những xã trọng điểm (xã có nhiều bệnh nhân Phong mới).
– Hàng năm tổ chức giao ban 4 phòng Chỉ đạo ngành: Viện Da liễu Quốc gia, Bệnh viện Da liễu Tp Hồ Chí Minh, Bệnh viện Phong – Da liễu Trung ương Quy Hoà; Bệnh viện Phong – Da liễu Trung ương Quỳnh Lập.
– Phân vùng dịch tễ bệnh Phong.
5. Hoạt động phòng chống bệnh LTQĐTD:
– Là tiểu ban Da liễu thuộc Cục phòng chống HIV/AIDS Bộ Y tế, Viện đã xây dựng Chương trình hành động phòng, chống các nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục đến năm 2010 trong khuôn khổ chương trình Y tế quốc gia phòng chống HIV/AIDS.
– Hàng năm tập huấn cho các giảng viên tuyến tỉnh về quản lí, giám sát và điều trị các nhiễm khuẩn LTQĐTD. Giám sát thương qui các bệnh LTQĐTD tại các tỉnh theo qui định của Bộ Y tế.
– Hoàn thành bộ tài liệu giảng dạy chuẩn quốc gia về quản lý bệnh LTQĐTD, các nhiễm khuẩn đường sinh sản cho chương trình chăm sóc sức khoẻ đường sinh sản của Bộ Y tế để thực hiện đào tạo trong hệ sản phụ khoa ở tuyến quận, huyện và xã, phường.
– Tham gia biên soạn tài liệu về chuẩn quốc gia điều trị nhiễm trùng cơ hội trong HIV/AIDS.
– Xây dựng quyển Atlas bệnh lây truyền qua đường tình dục
6. Công tác xuất bản và tuyên truyền, giáo dục y tế chuyên ngành:
– Cuốn Nội san Da liễu được ra đời sớm nhất từ tháng 10/1950 và liên tục cho tới nay, cùng với cuốn Thông tin Da liễu được Tổng hội Y học Việt Nam xuất bản đều đặn trong mấy thập kỷ qua, đã góp phần không nhỏ vào công tác “đào tạo liên tục” trong đông đảo cán bộ chuyên khoa Da liễu.
– Những sách chuyên đề về phổ biến khoa học đã được xuất bản với số bản tương đối nhiều như: “Một số kiến thức hiện đại về bệnh phong”, “Bệnh phong đầu phải nan y (Diễn Ca)”; “Tìm hiểu về bệnh Giang mai”, “Atlas bệnh lây truyền qua đường tình dục”, “Da tóc thường mắc những bệnh gì ?”; “Những bệnh nấm da thường gặp”, “Bệnh vảy nến”, “Những bệnh da có mủ”, “Bệnh da nghề nghiệp”, “Phục hồi chức năng trong bệnh phong” v.v… Mỗi đầu sách đã được Nhà xuất bản Y học in với chỉ số hàng ngàn cuốn và bán rộng rãi trong dân. Hàng chục bộ phim được ra đời kể cả phim truyện và phim đèn chiếu với những nội dung thiết thực nhằm giáo dục y tế về bệnh phong và hoa liễu cho nhân dân: (Ví dụ một vài tên phim có nhan đề: “Đâu phải nan y”; “Vẫn có ngày mai”, “Nga Sơn Thanh Hoá bệnh phong”, “Bản tình ca” nói về bệnh phong. Còn bộ phim “Trót dại” thì nói về bệnh hoa liễu, với hàng trăm bản đã được phát ra kèm theo hàng chục máy chiếu phim lưu động trên những địa bàn xa xôi hẻo lánh.
7. Thành tích nổi bật :
– Năm 1983 : Viện Da liễu đã được Nhà nước ta tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba.
– Năm 1983 : Bộ môn Da liễu đã được Bộ Y tế tặng bằng khen về thành tích giảng dạy giỏi
– Năm 1983 : Giáo sư Lê Kinh Duệ được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba.
– Năm 1995: Giáo sư Lê Kinh Duệ được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhì.
– Năm 1994: Giáo sư Lê Kinh Duệ được Hội chống phong những nước nói tiếng Pháp (Francophonie) bầu làm Phó Chủ tịch của Hội.
– Năm 1995: Giáo sư Lê Kinh Duệ đã vinh dự được tặng giải thưởng lớn mang tên Sasakawa của WHO.
– Năm 1996: Cố Giáo sư Ŀặng Vũ Hỷ được Nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh.
– Năm 2001: Viện Da liễu được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng hai.
– Năm 2002: Bộ môn Da liễu đã được tăng thưởng Huân chương lao động hạng Ba
– Năm 2003: Cố Giáo sư Viện trưởng Lê Kinh Duệ được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì.
– Năm 2003: PGS. TS. Phạm Văn Hiển được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng III.
Theo dalieu.vn
GIỚI THIỆU VIỆN DA LIỄU TRUNG ƯƠNGkham chua, benh vien
A. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
– Từ khoa “Bệnh lý Nội thương – Da liễu” được hình thành vào tháng hai năm 1954 và Trường Đại học Y Dược trên núi rừng Việt Bắc (Chiêm Hoá, Tuyên Quang), Giáo sư Đặng Vũ Hỷ cùng với 45 cán bộ – công nhân viên kháng chiến chống thực dân xâm lược Pháp về tiếp quản khu ngoài da của Bệnh viện Bạch Mai tháng 10/1954.
Lãnh đạo đơn vị ở thời kỳ đầu.
– Từ tháng 10 năm 1954 đến năm 1972: Giáo sư Ŀặng Vũ Hỷ – Chủ nhiệm Khoa Da liễu Bệnh viện Bạch Mai kiêm chủ nhiệm Bộ môn Da liễu trường Đại học Y Hà Nội. Giáo sư Lê Kinh Duệ – Phó Chủ nhiệm Bộ môn.
– Từ 1964, Giáo sư Lê Tử Vân được cử làm Phó Chủ nhiệm Khoa Da liễu Bệnh viện Bạch Mai.
– Từ năm 1972, sau khi Giáo sư Đặng Vũ Hỷ qua đời, cho tới năm 1981: Giáo sư Lê Kinh Duệ được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm khoa Da liễu Bệnh viện Bạch Mai kiêm Chủ nhiệm Bộ môn Da liễu trường Đại học Y Hà Nội. Giáo sư Lê Tử Vân giữ chức Phó Chủ nhiệm khoa, Phó Chủ nhiệm Bộ môn. Giáo sư Nguyễn Thị Ŀào – Làm Phó Chủ nhiệm Bộ môn.
– Ngày 28 tháng giêng năm 1982 Bộ Y tế ra Quyết định số 70/BYT-QĿ thành lập Viện Da liễu Việt Nam trực thuộc Bộ Y tế nằm trong Bệnh viện Bạch Mai do Giáo sư Lê Kinh Duệ làm Viện trưởng.
– Ngày 30/3/2006 Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 486/QĐ-TTg về việc thành lập Viện Da liễu Quốc gia trực thuộc Bộ Y tế do Phó giáo sư, tiến sĩ Phạm Văn Hiển làm Viện Trưởng.
B. CHỨC NĂNG NHIỆM VỤ:
1. Viện Da liễu Quốc gia là Viện chuyên khoa đầu ngành về Phong – Da liễu có chức năng
2. Viện Da liễu Quốc gia có các nhiệm vụ:
a) Nghiên cứu mô hình bệnh tật, các phương pháp chẩn đoán, điều trị, dự phòng và phục hồi chức năng các bệnh thuộc chuyên ngành bệnh Phong và Da liễu:
b) Đào tạo cán bộ
c) Công tác khám, chữa bệnh và phục hồi chức năng
d) Chỉ đạo tuyến
e) Hợp tác quốc tế
C. LÃNH ĐẠO VIỆN HIỆN NAY:
– PGS. TS. Phạm Văn Hiển – Viện trưởng Viện Da liễu kiêm Chủ nhiệm Bộ môn Da liễu trường Đại học Y Hà Nội, Phó Chủ tịch Hội Da liễu Việt Nam.
– PGS. TS. Trần Hậu Khang – Phó Viện trưởng Viện Da liễu kiêm Phó Chủ nhiệm Bộ môn Da liễu trường Đại học Y Hà Nội.
– TS. Nguyễn Sỹ Hoá – Phó Viện trưởng Viện Da liễu.
D. HỆ THỐNG TỔ CHỨC
Hệ thống tổ chức của Viện Da liễu hiện nay gồm khối các khoa phòng chức năng, các khoa lâm sàng và các khoa cận lâm sàng
1. Các phòng chức năng
a. Phòng tổ chức hành chính
b. Phòng đào tạo và nghiên cứu khoa học
c. Phòng hợp tác quốc tế
d. Phòng chỉ đạo ngành
e. Phòng tài chính kế toán
f. Phòng kế hoạch tổng hợp – quản trị – vật tư và thiết bị y tế
g. Phòng y tế cơ quan
2. Các khoa lâm sàng
a. Khoa khám bệnh
b. Khoa điều trị bệnh phong và laser – phẫu thuật
i. Bệnh nhân phong nội trú
ii. Vật lý trị liệu, UVA – UVB
iii. Laser
iv. Phẫu thuật
v. Chăm sóc da thẩm mỹ
c. Khoa điều trị bệnh da phụ nữ và trẻ em
d. Khoa điều trị bệnh da nam giới
3. Các khoa cận lâm sàng
a. Khoa dược
b. Khoa xét nghiệm
i. Phòng vi sinh – nấm
ii. Phòng giải phẫu bệnh
iii. Phòng huyết thanh
iv. Phòng sinh hóa – huyết học
v. Phòng miễn dịch
Ngoài ra, Viện còn có:
– Đảng bộ
– Công đoàn
– Chi đoàn
– Bộ môn Da liễu trường Đại học Y Hà Nội
– Hội đồng thi đua khen thưởng
– Hội đồng bảo hộ lao động
– Hội động khoa học kỹ thuật
– Hội đồng lương
– Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học
4. Cán bộ
– Tổng số cán bộ Viện Da liễu gồm 160, trong đó có 15 cán bộ thuộc biên chế Bộ môn Da liễu Trường đại học Y Hà nội
– Phó giáo sư, tiến sĩ: 3
– Tiến sĩ: 6
– Thạc sĩ: 16
– Bác sĩ CK II: 6
– Bác sĩ CK I: 8
– Bác sĩ: 8
E. THÀNH QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Từ khi thành lập Khoa Da liễu Bệnh viện Bạch Mai cho tới nay là Viện Da liễu Quốc gia, Viện đã thực hiện và chỉ đạo được một số công việc nổi bật sau:
1. Xây dựng màng lưới chuyên khoa:
Cho tới nay 100% các tỉnh/thành (64/64) trong cả nước đều đã có cơ sở chuyên khoa Da liễu. Tuỳ theo điều kiện cụ thể về tổ chức biên chế cán bộ, theo địa dư và theo phương pháp quản lý của từng địa phương mà các cơ sở Da liễu ở từng địa phương mang những tên gọi khác nhau (Bệnh viện Da liễu; Bệnh viện Phong và Da liễu; Trung tâm Da liễu; Trạm Da liễu; tổ Da liễu nằm trong Trung tâm phòng chống bệnh xã hội, Trung tâm Y tế dự phòng, Trạm Da liễu), nhưng chức năng, nhiệm vụ công tác và mục tiêu hoạt động chuyên khoa đều thống nhất.
2. Đào tạo và nghiên cứu khoa học:
25 năm qua Viện đã đào tạo được nhiều đối tượng đại học, sau đại học, cụ thể :
– Bác sĩ chuyên khoa : 418
– Bác sĩ chuyên khoa I : 207
– Bác sĩ chuyên khoa II: 28
– Bác sĩ nội trú: 13
– Thạc sĩ: 22
– Nghiên cứu sinh: 17
– Sinh viên luân khoa của trường Y: Trung bình mỗi năm khoảng 200 đến 400
– Đào tạo chuyên khoa cho các đơn vị bạn như trường đại học y tế cộng cộng, đại học răng hàm mặt…
– Mở hàng trăm lớp đào tạo lại, nâng cao trình độ tại các tỉnh, thành về bệnh Phong, bệnh da và bệnh LTQĐTD.
– Tham gia giảng dạy cho các sinh viên nước ngoài đến học tập, nghiên cứu.
– Nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu các đề tài về phòng chống các bệnh da liễu, bệnh phong, bệnh LTQĐTD và phục vụ cho công tác đào tạo, xây dựng màng lưới chuyên khoa, công tác nghiên cứu khoa học được ngành Da liễu khởi xướng ngay từ khi Giáo sư Đặng Vũ Hỷ về tiếp quản khoa Da liễu Bệnh viện Bạch Mai và cho tới nay vẫn tiếp tục, ngày càng phát triển.
– Tổng số hơn 1.300 công trình nghiên cứu và báo cáo khoa học, nổi bật gồm:
• Phong: 312
• LTQĐTD: 165
• Các bệnh da phổ biến: 290
3. Hợp tác quốc tế:
Từ những năm đầu tiên, khi mới về tiếp quản khoa Da liễu Bệnh viện Bạch Mai, Khoa đã nhận được sự giúp đỡ và hợp tác nghiên cứu khoa học của các nước xã hội chủ nghĩa :
– Năm 1957-1958 : Đoàn chuyên gia Liên Xô (cũ) sang giúp ta phát hiện các bệnh hoa liễu ở Tây Bắc, Phát Diệm Ninh Bình và một vài thành phố và thị xã trên miền Bắc. Ŀồng thời chi viện cho chúng ta nhiều thuốc men và hoá chất phục vụ công tác này.
– Từ năm 1959-1962 :
+ Bác sĩ Vulcan, chuyên gia Rumani sang hợp tác cùng Khoa Da liễu Bệnh viện Bạch Mai khám phát hiện và điều trị bệnh phong taị huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá, huyện Vĩnh Tương tỉnh Vĩnh Phúc.
+ Các chuyên gia : Kudela (Tiệp Khắc), Stoyanov Nitov (Bungari), Giáo sư Volgan Hofs (Cộng hoà Dân chủ Ŀức) sang hợp tác nghiên cứu khoa học và giúp chúng ta chống các bệnh Da liễu.
– Sau này, khi đất nước còn bị cấm vận, từ những năm 1977-1978, ngành Da liễu đã tạo được những mối quan hệ quốc tế ngày càng phát triển với nhiều tổ chức phi chính phủ (NGO) ở các nước như : Hà Lan, Nhật Bản, Bỉ, Anh, ĐĿức, Pháp, ý, Thuỵ Sĩ…, Tổ chức Y tế Thế giới (WHOs)… Mỗi tổ chức giúp chúng ta một vùng, gồm từ 1-2 ; 4-5 ; rồi 10 đến 12 tỉnh/thành phố, với đề án hợp tác, viện trợ thuốc men, phương tiện giao thông (ô tô, xe máy, xe đạp…), tài liệu sách vở, kinh phí đào tạo cán bộ, giáo dục y tế, phục hồi chức năng, dạy nghề… và gửi cán bộ đi học tập, tham gia, dự hội nghị quốc tế và khu vực, góp phần nâng cao trình độ và uy tín của Ngành Da liễu, Viện Da liễu trên trường quốc tế.
– Từ 1992 đến nay: 100% các tỉnh, thành có dự án hợp tác về công tác phòng chống Phong với các tổ chức quốc tế như: WHO, các Hội chống Phong các nước Bỉ, Hà Lan, Anh, Pháp, Nhật, Nauy… Hàng năm, có hàng chục đoàn khách quốc tế và chuyên gia vào làm việc với Viện Da liễu. Viện đã hoàn thành kịp thời thủ tục phê duyệt dự án, chuyển kinh phí cho địa phương hoạt động và quyết toán với phía bạn, duy trì được các nguồn viện trợ hàng năm của các tổ chức gồm nhiều tỷ đồng. Nhiều đề án đặc biệt đã được thực hiện như với WHO là đề án Giám sát sau loại trừ bệnh Phong, tổ chức các lớp may, sửa chữa xe máy, học lái xe, nghề mộc… cho bệnh nhân phong và con em của họ.
4. Thành tựu bước đầu trong công cuộc chống bệnh phong :
– Từ chỗ những năm trước đây ta chỉ có điều kiện điều trị bệnh phong bằng DDS đơn thuần (đơn hoá trị liệu). Từ sau ngày thống nhất đất nước, Ngành Da liễu nắm bắt được kịp thời những thông tin mới trên Thế giới về kỹ thuật, chẩn đoán, phân loại và điều trị bệnh phong từ năm 1983 đến nay. Ngành Da liễu đã chuyển sang dùng hoá trị liệu phối hợp (đa hoá trị liệu), giúp hiệu quả trị bệnh tăng nhanh gấp bội, nhanh chóng cắt được nguồn lây, hạn chế tàn tật trên bệnh nhân phong và đề phòng vi khuẩn phong kháng thuốc. Tỷ lệ bệnh nhân bị tái phát rất thấp. Chỉ mới tính đến năm 1994, sau 10 năm thực hiện Đa hoá trị liệu (ĐHTL-MDT), tổng số bệnh nhân đã hoàn thành đa hoá trị liệu và đã được khỏi bệnh là 80.000 người / trên cả nước.
– Trong công trình nghiên cứu dài hạn nhằm rút ngắn thời gian chữa khỏi bệnh phong hơn nữa bằng Ofloxacin của Tổ chức Y tế Thế giới, Việt Nam đã được chọn là một trong 7 Trung tâm lớn của toàn thế giới tham gia đề tài này.
– Năm 1994, Thủ đô Hà Nội đã được chọn để đăng cai việc tổ chức một Hội nghị Quốc tế quan trọng bàn về việc khống chế và tiến tới thanh toán bệnh phong trên toàn cầu. Đã có hơn 150 đại biểu, các nhà khoa học về bệnh phong, 47 Bộ trưởng Bộ Y tế các nước sang Việt Nam cùng tham gia. Hội nghị đã ra được bản “Tuyên ngôn Hà Nội” khuyến cáo mọi quốc gia phấn đấu sớm loại trừ bệnh phong ra khỏii Y tế cộng đồng, đạt được như lời kêu gọi của Đại hội Y tế Thế giới tổ chức tại Genève năm 1991 là Hãy loại trừ bệnh phong ra khỏi nền y tế cộng đồng trên toàn thế giới vào năm 2000.
– Từ năm 1995 : Chương trình phòng chống bệnh phong của Ngành Da liễu đã được Nhà nước nâng lên thành chương trình quốc gia.
– Từ năm 1995-2006 :
+ Thực hiện chương trình y tế quốc gia về phòng chống bệnh Phong. Đã thực hiện thành công “Loại trừ bệnh Phong theo tiêu chuẩn WHO” vào năm 2000.
+ Tính đến hết năm 2006, có 37 tỉnh, thành trong cả nước đạt được loại trừ bệnh phong theo 4 tiêu chuẩn của Việt Nam do Bộ Y tế ban hành năm 2002. (Tiêu chuẩn này cao hơn nhiều so với tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới).
– Hàng năm giám sát hoạt động chống Phong của các tỉnh trong toàn quốc.
– Chỉ đạo và thực hiện chương trình phòng chống tàn tật cho bệnh nhân Phong.
– Thực hiện dự án hợp tác giữa phòng Chỉ đạo ngành với các Hội chống Phong Hà Lan (NLR), Bỉ, Đức.
– Mở nhiều lớp tập huấn về chăm sóc bàn tay, bàn chân mất cảm giác, phòng tránh thương tích ở mắt bệnh nhân Phong cho cán bộ chuyên môn của các khu điều trị Phong và cán bộ làm công tác chống Phong.
– Tập huấn nâng cao kiến thức về bệnh Phong cho cán bộ chuyên khoa tuyến huyện tại các tỉnh trong cả nước.
– Tập huấn cho cán bộ chống phong tuyến tỉnh về chiến lược lồng ghép trong hoạt động chống phong giai đoạn mới.
– Xây dựng các tài liệu và biểu mẫu theo dõi tàn tật cho bệnh nhân Phong, mẫu Báo cáo tình hình hoạt động da liễu hàng năm, bệnh án bệnh nhân Phong, sửa mẫu M2, M3 cho phù hợp với tình hình thực tế.
– Hoàn thiện văn bản dưới luật hướng dẫn tổ chức công nhận loại trừ bệnh Phong theo 4 tiêu chuẩn của Việt Nam.
– Phân phối thuốc chống Phong, thuốc bôi ngoài da phục vụ công tác khám phát hiện bệnh Phong cho các tỉnh/thành trong cả nước.
– Giáo dục y tế toàn dân và tập huấn cho cán bộ y tế những kiến thức cơ bản về bệnh Phong ở những xã trọng điểm (xã có nhiều bệnh nhân Phong mới).
– Hàng năm tổ chức giao ban 4 phòng Chỉ đạo ngành: Viện Da liễu Quốc gia, Bệnh viện Da liễu Tp Hồ Chí Minh, Bệnh viện Phong – Da liễu Trung ương Quy Hoà; Bệnh viện Phong – Da liễu Trung ương Quỳnh Lập.
– Phân vùng dịch tễ bệnh Phong.
5. Hoạt động phòng chống bệnh LTQĐTD:
– Là tiểu ban Da liễu thuộc Cục phòng chống HIV/AIDS Bộ Y tế, Viện đã xây dựng Chương trình hành động phòng, chống các nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục đến năm 2010 trong khuôn khổ chương trình Y tế quốc gia phòng chống HIV/AIDS.
– Hàng năm tập huấn cho các giảng viên tuyến tỉnh về quản lí, giám sát và điều trị các nhiễm khuẩn LTQĐTD. Giám sát thương qui các bệnh LTQĐTD tại các tỉnh theo qui định của Bộ Y tế.
– Hoàn thành bộ tài liệu giảng dạy chuẩn quốc gia về quản lý bệnh LTQĐTD, các nhiễm khuẩn đường sinh sản cho chương trình chăm sóc sức khoẻ đường sinh sản của Bộ Y tế để thực hiện đào tạo trong hệ sản phụ khoa ở tuyến quận, huyện và xã, phường.
– Tham gia biên soạn tài liệu về chuẩn quốc gia điều trị nhiễm trùng cơ hội trong HIV/AIDS.
– Xây dựng quyển Atlas bệnh lây truyền qua đường tình dục
6. Công tác xuất bản và tuyên truyền, giáo dục y tế chuyên ngành:
– Cuốn Nội san Da liễu được ra đời sớm nhất từ tháng 10/1950 và liên tục cho tới nay, cùng với cuốn Thông tin Da liễu được Tổng hội Y học Việt Nam xuất bản đều đặn trong mấy thập kỷ qua, đã góp phần không nhỏ vào công tác “đào tạo liên tục” trong đông đảo cán bộ chuyên khoa Da liễu.
– Những sách chuyên đề về phổ biến khoa học đã được xuất bản với số bản tương đối nhiều như: “Một số kiến thức hiện đại về bệnh phong”, “Bệnh phong đầu phải nan y (Diễn Ca)”; “Tìm hiểu về bệnh Giang mai”, “Atlas bệnh lây truyền qua đường tình dục”, “Da tóc thường mắc những bệnh gì ?”; “Những bệnh nấm da thường gặp”, “Bệnh vảy nến”, “Những bệnh da có mủ”, “Bệnh da nghề nghiệp”, “Phục hồi chức năng trong bệnh phong” v.v… Mỗi đầu sách đã được Nhà xuất bản Y học in với chỉ số hàng ngàn cuốn và bán rộng rãi trong dân. Hàng chục bộ phim được ra đời kể cả phim truyện và phim đèn chiếu với những nội dung thiết thực nhằm giáo dục y tế về bệnh phong và hoa liễu cho nhân dân: (Ví dụ một vài tên phim có nhan đề: “Đâu phải nan y”; “Vẫn có ngày mai”, “Nga Sơn Thanh Hoá bệnh phong”, “Bản tình ca” nói về bệnh phong. Còn bộ phim “Trót dại” thì nói về bệnh hoa liễu, với hàng trăm bản đã được phát ra kèm theo hàng chục máy chiếu phim lưu động trên những địa bàn xa xôi hẻo lánh.
7. Thành tích nổi bật :
– Năm 1983 : Viện Da liễu đã được Nhà nước ta tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba.
– Năm 1983 : Bộ môn Da liễu đã được Bộ Y tế tặng bằng khen về thành tích giảng dạy giỏi
– Năm 1983 : Giáo sư Lê Kinh Duệ được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba.
– Năm 1995: Giáo sư Lê Kinh Duệ được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhì.
– Năm 1994: Giáo sư Lê Kinh Duệ được Hội chống phong những nước nói tiếng Pháp (Francophonie) bầu làm Phó Chủ tịch của Hội.
– Năm 1995: Giáo sư Lê Kinh Duệ đã vinh dự được tặng giải thưởng lớn mang tên Sasakawa của WHO.
– Năm 1996: Cố Giáo sư Ŀặng Vũ Hỷ được Nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh.
– Năm 2001: Viện Da liễu được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng hai.
– Năm 2002: Bộ môn Da liễu đã được tăng thưởng Huân chương lao động hạng Ba
– Năm 2003: Cố Giáo sư Viện trưởng Lê Kinh Duệ được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì.
– Năm 2003: PGS. TS. Phạm Văn Hiển được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng III.
Theo dalieu.vn
Giới thiệu bộ môn Da liễu – Đại học Y Hà Nội
Giới thiệu bộ môn Da liễu – Đại học Y Hà Nội
– Bộ môn Da liễu là một đơn vị của Trường Đại học Y Hà Nội. Bộ môn đã có sự gắn bó mật thiết với Bệnh viện Da liễu Trung ương qua các thời kỳ. Nhiều cán bộ của Bộ môn đã và đang đảm nhiệm các chức vụ lãnh đạo Viện, lãnh đạo các Khoa phòng. Ngược lại, các cán bộ của Bệnh viện Da liễu Trung ương cũng phối hợp với Bộ môn tham gia công tác đào tạo đại học và sau đại học. Mô hình hoạt động của Bộ môn Da liễu được trường Đại học Y Hà Nội đánh giá là một trong các mô hình kết hợp Viện – Trường mẫu mực.
1. Hoàn cảnh ra đời Bộ môn:
Năm 1935, Trường Đại Học Y Khoa Đông Dương đã thành lập Bộ Môn Da Liễu. BS. Grennilrboley được cử làm Chủ nhiệm bộ môn. Các Phó chủ nhiệm Bộ môn qua các thời kỳ bao gồm:
– 1936: BS. Nguyễn Hữu Phiến.
– 1938-1940: BS. Nguyễn Văn Chính (chuyên về lâm sàng) và BS. Huỳnh Kham (chuyên về xét nghiệm).
– 1941-1945: BS. Ngô Như Hòa
Sau ngày giải Phóng Thủ đô (10/10/1954). GS. Đặng Vũ Hỷ cùng một số cán bộ được phân công tiếp quản Khoa Da Liễu nằm trong BV Bạch Mai và trở thành vị Chủ nhiệm khoa đầu tiên của Khoa Da Liễu, kiêm Chủ nhiệm Bộ môn Da Liễu của Trường Đại Học Y Dược, Hà Nội.
Năm 1955, BS. Lê Kinh Duệ chuyển từ Quân y sang Bộ Môn. Năm 1959, 1960, 1961 Bộ Môn lần lượt được nhận thêm BS. Nguyễn Thị Đào, BS. Lê Tử Vân, BS. Nguyễn Văn Điền. Từ một Bộ môn chỉ có vài cán bộ, với công sức của các vị chủ nhiệm, các cán bộ trong Bộ môn kế tiếp nhau làm việc không mệt mỏi, Bộ Môn Da liễu đã dần dần trưởng thành lớn mạnh cả về số lượng, chất lượng chuyên môn, chính trị.
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng uỷ, ban giám hiệu trường ĐHYHN, Bộ Môn Da Liễu ngày nay đã đảm nhận các chương trình đào tạo Đại học, Sau đại học và các đối tượng khác để cùng Bệnh viện Da liễu Trung ương, ngành Da liễu tạo dựng nên hệ thống mạng lưới chuyên khoa Da Liễu từ trung ương đến cơ sở, từ thành thị đến nông thôn trên toàn quốc góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của toàn ngành.
2. Chức năng nhiệm vụ:
Bộ Môn Da liễu được giao thực hiện các nhiệm vụ chính trị sau:
* Đào tạo cán bộ.
* Nghiên cứu khoa học.
* Điều trị bệnh nhân.
* Biên soạn và xuất bản tài liệu giảng dạy, nghiên cứu.
* Công tác ngành.
* Công tác khác.
alt
Buổi giao ban hàng tuần của Bộ môn
3. Lãnh đạo Bộ môn:
Các chủ nhiệm Bộ môn
– Từ 1945 – 1972: GS. Đặng Vũ Hỷ.
– Từ 1973 – 1997: GS. Lê Kinh Duệ.
– Từ 1998 – 2008: chúng tôi Phạm Văn Hiển
– Từ 2009 – nay : chúng tôi Trần Hậu Khang
Ban chủ nhiệm Bộ môn hiện nay
PGS. TS Trần Hậu Khang: Chủ Nhiệm Bộ môn kiêm Giám đốc Bệnh viện Da liễu Trung ương
PGS.TS. Trần Lan Anh : Phó Chủ Nhiệm Bộ môn kiêm Trưởng Phòng Đào Tạo – NCKH Bệnh viện Da liễu Trung ương
Bệnh Viện Da Liễu Trung Ương Quy Hòa
1. Quá trình thành lập.
Khoa Dược Bệnh viện Phong – Da liễu Trung ương Quy Hòa được hình thành từ năm 1929. Ngày 25 tháng 6 năm 1976, dòng Phanxico bàn giao Bệnh viện Quy Hòa cho Bộ Y tế. Bệnh viện Quy Hòa được đổi tên thành Khu Điều trị Phong Quy Hòa.
Từ lúc khoa Dược chỉ có một tổ pha chế thô sơ đến nay đã trở thành một khoa Dược gồm 05 tổ chuyên môn sâu đáp ứng mọi công tác dược của bệnh viện. Thời kỳ đầu khoa chủ yếu làm công tác cấp phát thuốc, y dụng cụ. Mặc dù có nhiều khó khăn nhưng khoa đảm bảo tốt công tác phục vụ bệnh nhân. Trước yêu cầu phục vụ bệnh nhân ngày càng tăng và cùng với sự phát triển của Bệnh viện, khoa càng ngày càng phát triển theo quy mô của Bệnh viện, cả về số lượng và chất lượng.
2. Nhân sự.
Tổng số nhân viên: 23 người
Trong đó:
*Dược sĩ chuyên khoa 1 02
*Dược sĩ đại học 05
*Dược sĩ cao đẳng 03
*Dược sĩ trung học
12
*Dược tá 01
3. Chức năng, nhiệm vụ:
Khoa dược là khoa chuyên môn chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Giám đốc Bệnh viện. Khoa dược có chức năng quản lý và tham mưu cho Giám đốc Bệnh viện về toàn bộ công tác dược trong Bệnh viện nhằm đảm bảo cung cấp đầy đủ, kịp thời thuốc có chất lượng và tư vấn, giám sát việc sử dụng thuốc an toàn, hợp lý.
Lập kế hoạch, cung ứng thuốc bảo đảm đủ số lượng, chất lượng cho nhu cầu điều trị và thử nghiệm lâm sàng nhằm đáp ứng yêu cầu chẩn đoán, điều trị và các yêu cầu chữa bệnh khác (Phòng chống dịch bệnh, thiên tai, thảm họa).
Quản lý, theo dõi việc nhập thuốc, cấp phát thuốc cho nhu cầu điều trị và các nhu cầu đột xuất khác khi có nhu cầu.
Đầu mối tổ chức, triển khai hoạt động của Hội đồng thuốc và điều trị.
Bảo quản thuốc theo đúng nguyên tắc “Thực hành tốt bảo quản thuốc” .
Tổ chức pha chế thuốc, hóa chất sát khuẩn, bào chế thuốc đông y, sản xuất thuốc từ dược liệu sử dụng trong Bệnh viện.
Quản lý, theo dõi việc thực hiện các quy định chuyên môn về dược tại các khoa trong Bệnh viện.
Nghiên cứu khoa học và đào tạo; là cơ sở thực hành của các trường Cao đẳng và Trung học về dược.
Phối hợp với Khoa cận lâm sàng và lâm sàng theo dõi, kiểm tra, đánh giá, giám sát việc sử dụng thuốc an toàn, hợp lý đặc biệt là sử dụng kháng sinh và theo dõi tình hình kháng kháng sinh trong Bệnh viện.
Tham gia chỉ đạo tuyến.
Tham gia hội chẩn khi được yêu cầu.
Tham gia theo dõi, quản lý kinh phí sử dụng thuốc.
Quản lý hoạt động của Nhà thuốc Bệnh viện theo đúng quy định.
4. Chỉ tiêu kế hoạch:
Không có vi phạm quy chế chuyên môn, không vi phạm quy tắc ứng xử, không vi phạm 12 điều y đức.
Mỗi tuần cử Dược sĩ đến khoa lâm sàng kiểm tra về dược lâm sàng và phối hợp với bác sĩ trong chỉ định thuốc. Phối hợp với Hội đồng thuốc bệnh viện bình bệnh án + đơn thuốc 1 lần/tháng.
Tập thể lao động tiên tiến.
Không có cán bộ nào vi phạm đi muộn về sớm trong giờ làm việc.
Đề tài NCKH và viết bài (website, tạp chí, truyền thông GD):
Đề tài NCKH hay SKCTKT : 01 đề tài hay SKKT/năm.
5. Thành tựu trong quản lý, nghiên cứu khoa học và điều trị:
– Được Bộ Trưởng Bộ Y Tế tặng bằng khen về việc: Đã có nhiều thành tích trong công tác loại trừ bệnh phong ở Tây Nguyên và phòng chống “Hội chứng Viêm da dày sừng lòng bàn tay, bàn chân” năm 2013; Bộ Trưởng Bộ Y Tế tặng bằng khen về việc: Đã có thành tích xuất sắc trong quá trình xây dựng và phát triển đơn vị năm 2014.
– Khoa tham gia tích cực và đầy đủ các đợt thi đua do công đoàn tổ chức, mọi hoạt động VHVN – TDTT của bệnh viện phát động, đạt được những thành tích đáng kể.
MỘT SỐ HÌNH ẢNH TẠI KHOA DƯỢC BỆNH VIỆN
Bệnh Viện Da Liễu Trung Ương Nằm Ở Đâu
Bệnh viện Da liễu Trung ương là bệnh viện tuyến cao nhất chuyên điều trị và phục hồi chức năng các bệnh lý về phong và da liễu. Bệnh viện da liễu Trung ương được biết đến có các đội ngũ dầy dặn kinh nghiệm: giáo sư, bác sĩ chuyên môn cao được đào tạo trong và ngoài nước và cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến hiện đại. Với nhiều đặc tính nỗi bậc trên bệnh viện được rất nhiều bệnh nhân tin tưởng lựa chọn thăm khám và điều trị các bệnh chuyên khoa Da liễu và Phong.
bệnh viện da liễu trung ương nằm ở đâu Bệnh viện Da Liễu Trung Ương có những khoa nào?Hiện nay, Bệnh viện Da liễu Trung Ương có thể tiếp nhận khám và điều trị các vấn đề Da liễu được chia làm các khoa như sau:
1. Khoa lâm sàng:
Khoa Khám bệnh.
Khoa Dinh dưỡng, tiết chế.
Khoa điều trị bệnh da nữ giới và trẻ em.
Khoa điều trị bệnh da nam giới.
Khoa Phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ và phẫu thuật chỉnh hình.
Khoa chống nhiễm khuẩn.
Khoa Laser và săn sóc da.
Khoa Nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tế bào gốc.
2. Khoa cận lâm sàng:
Khoa Chẩn đoán hình ảnh.
Khoa Xét nghiệm huyết học, sinh hóa, miễn dịch và giải phẫu bệnh.
Khoa Xét nghiệm, vi sinh, nấm, ký sinh trùng.
Khoa Dược.
Bệnh viện Da Liễu Trung Ương nằm ở đâuĐịa chỉ Bệnh viện Da liễu Trung Ương có vị trí khá thuận tiện cho bệnh nhân tại Thủ đô Hà Nội cũng như các khu vực lân cận thăm khám và điều trị.
Địa chỉ Bệnh viện Da liễu Trung ương: 15A, Phương Mai, Đống Đa, Hà Nội.
Điện thoại: 024 3222 2944
Tổng đài chăm sóc khách hàng: 19006951.
Bệnh viện da liễu trung ương nằm ở đâu Giờ làm việc ở bệnh viện Da liễu Trung Ương
Thứ 2 – Thứ 6: Sáng từ 6 giờ 30 – 12 giờ / Chiều: từ 13giờ 30 – 16giờ 30.
Thứ 7 – Chủ Nhật: Sáng từ 7giờ – 11giờ 30/ Chiều: từ 14giờ – 17giờ 30.
Lịch khám bệnh với Trưởng KhoaTừ Thứ 2 – CN Sáng: từ 6giờ – 12giờ / Chiều: từ 13giờ 30 – 16giờ 30.
Lịch khám bệnh trong giờ hành chính
Thứ 2 – Thứ 6: 16giờ 30 – 18giờ 30.
Thứ 7 – CN sáng: 7giờ – 11giờ 30 / chiều: 14giờ – 17 giờ.
Lịch khám bệnh ngoài giờ
Bước 1: Bệnh nhân tiến hành đăng ký khám tại khu vực khám bệnh theo yêu cầu cầu, bệnh nhân điền đầy đủ thông tin vào giấy khám sức khỏe.
Bước 2: Sau đó đống viện phí nhận số thứ tự và được bác sĩ phân luồng khu vực khám bệnh theo yêu cầu từ phòng 1 đến 23.
Bước 3: Bạn đến khu đặc trị các bệnh lý hoặc chăm sóc da. Bác sĩ sẽ kiểm tra và khám.
Bước 4: Sau khi khám Bác sĩ sẽ yêu cầu xét nghiệm ( nếu có) Bạn cần đến khu xét nghiệm kiểm tra theo yêu cầu bác sĩ (Đa phần các kết quả xét nghiệm sẽ có kết quả trong ngày)
Bước 6: Nếu trường hợp đặc biệt, bệnh nhân có tình trạng nặng thì bác sĩ sẽ yêu cầu nhập viện ( đưa ra các yêu cầu điều trị chuyên môn tiểu phẩu hoặc phẩu thuật….)
Bước 7: Bệnh nhân đến khu vực quầy thuốc, thanh toán toa thuốc và tái khám theo yêu cầu của bác sĩ.
Quy trình khám bệnh tại Bệnh viện Da liễu Trung ươngCập nhật thông tin chi tiết về Bệnh Viện Da Liễu Trung Ương, Lịch Khám Bệnh Viện Da Liễu Trung Ương, Soi Da Ở Bệnh Viện Da Liễu Trung Ương, Khoa Thẩm Mỹ Bệnh Viên Da Liễu Trung Ương trên website Sept.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!